Thứ Tư, 2 tháng 12, 2015

                                                      Đừng lợi dụng dân chủ mà nói càn

    Dân chủ là khát vọng của toàn nhân loại, nó mang giá trị chung của nhân loại. Nhưng trên con đường vươn tới khát vọng đó nó bị chi phối bởi các đảng chính trị và mang dấu ấn của điều kiện kinh tế- xã hội cụ thể. Các con đường vươn tới dân chủ, do đó cũng khác nhau. Chúng ta không dung thứ bất cứ sự dập khuôn, bắt trước hay áp đặt nào; càng không chấp nhận việc lợi dụng cái gọi là dân chủ để làm rối loạn tình hình, vi phạm độc lập, chủ quyền và quyền tự quyết của bất cứ quốc gia dân tộc nào; làm méo mó hoặc thui chột quyền dân chủ của nhân dân. Đất nước Việt Nam dù còn phải gặp không ít khó khăn trên con đường phát triển. Nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân ta có quyền tự hào rằng, một nền dân chủ hiện thực chân chính đã, đang và tiếp tục phát triển ở Việt Nam, mà đỉnh cao là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, không ngừng tiến bộ, phù hợp với điều kiện của mình và xu thế phát triển của thời đại. Đó là điều bất cứ ai cũng đều thấy. Những kẻ không hiều, hoặc cố tình không hiểu; những kẻ có dã tâm đen tối, quên giống nòi, chạy theo lối sống thực dụng… dù có cố tình rêu rao thế nào đi chăng nữa, kết cục cũng sẽ nhận sự trừng phạt đích đáng của lịch sử. Nhân nào –quả ấy, chắc chắn sẽ bị “quả báo” mà thôi!

Thứ Hai, 2 tháng 11, 2015

                                                           CẦN CẢNH GIÁC
Việt Nam đang phải đối diện với những thế lực thù địch và những người mang quan điểm cực đoan, cường quyền, mưu toan lợi dụng vấn đề dân chủ và nhân quyền nhằm lật đổ chế độ xã hội và Nhà nước hiện hữu, chuyển sang mô hình dân chủ, nhân quyền “ngoại nhập”. Chẳng hạn như người ta xuyên tạc, vu cáo Việt Nam vi phạm quyền tự do ngôn luận báo chí, bắt bớ bỏ tù những người được gọi là “bất đồng chính kiến” trong đó có các blogger; hoặc họ cho rằng Việt Nam đối xử tàn bạo với các tôn giáo với bằng chứng là những vụ xét xử 14 người có đạo ở Nghệ An, 20 người ở Phú Yên hoặc đạo “Hà Mòn" ở Tây Nguyên. Những người có nhận thức công bằng, khách quan thì không khó để bác bỏ những lập luận và chứng cớ nói trên. Pháp luật của bất cứ quốc gia nào cũng phải đồng thời bảo vệ nhân quyền và chế độ xã hội. Trong điều kiện hiện nay, một số quốc gia luôn phải đối diện với các lực  lượng chính trị đối lập với sự trợ giúp của các lực lượng chính trị cường quyền ở nước ngoài nhằm thay đổi chính phủ hiện hữu. Cái gọi là hoạt động “ôn hòa”, “bất bạo động” không nói lên bản chất chính trị, bất hợp pháp của những kẻ mưu toan lật đổ chế độ xã hội. Bởi vậy, Luật Hình sự Việt Nam có một số điều, như Điều 88, "Tội tuyên truyền chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam”; Điều 258, “Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước…”; Điều 79, “Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân”…  nhằm ngăn cấm những hoạt động làm tổn hại đến chế độ xã hội là điều đương nhiên.
Về những cáo buộc vô căn cứ rằng Việt Nam vi phạm quyền tự do tôn giáo, “đối xử tàn bạo” với các tôn giáo, sự thật là những người có đạo bị đưa ra tòa xét xử không phải vì họ theo tôn giáo này hay tôn giáo khác, mà là vì họ vi phạm pháp luật. Đúng hơn, họ đã lợi dụng quyền tự do tôn giáo để phục vụ ý đồ chính trị, lật đổ chế độ xã hội, thậm chí còn có ý đồ thành lập quốc gia riêng của họ. Chẳng hạn vụ án “Hội đồng công luật công án Bia Sơn”. Tổ chức này núp bóng doanh nghiệp hoạt động du lịch sinh thái, với tham vọng lớn: Lật đổ nhà nước  CHXHCN Việt Nam, thành lập “Nhà nước Đại Nam Kinh Châu”.
Đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước ta về quyền con người như đã nói ở trên đều xuất phát từ mục tiêu, lý tưởng của Đảng, từ bản chất của chế độ ta. Nó hoàn toàn không phải xuất phát từ sức ép nào đó của cộng đồng quốc tế hoặc của các lực lượng chính trị đối lập trong và ngoài nước. Đường lối, chính sách nhất quán của Nhà nước Việt Nam trên lĩnh vực quyền con người xuất phát từ tôn trọng giá trị nhân quyền phổ quát, đồng thời bắt nguồn từ truyền thống lịch sử, văn hóa hàng nghìn năm của dân tộc. 
Đường lối, chính sách trên lĩnh vực quyền con người ở Việt Nam là tiếp tục hoàn thiện pháp luật, các cơ chế bảo đảm quyền con người; bảo đảm cân bằng giữa các nhóm quyền dân sự, chính trị với nhóm quyền kinh tế, xã hội và văn hóa; quan tâm nhiều hơn đến nhóm người nghèo, đồng bào vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số…, những nhóm trong xã hội dễ bị tổn thương, như trẻ em, nữ giới, các dân tộc thiểu số... Việt Nam đặt lên hàng đầu yêu cầu bảo đảm an ninh quốc gia, trật tự công cộng như là điều kiện cho tăng trưởng kinh tế, xóa đói giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã hội.
Hợp tác quốc tế trên lĩnh vực quyền con người đối với Việt Nam không chỉ là việc thực hiện các cam kết quốc tế, mà trước hết là tranh thủ các nguồn lực về tinh thần, vật chất để phát triển đất nước, giữ vững và phát triển chế độ xã hội. Bởi vậy Đảng và Nhà nước ta khẳng định, chính sách nhất quán của Việt Nam là tăng cường hợp tác quốc tế, trong đó có hợp tác với Hoa Kỳ trên lĩnh vực quyền con người, bao gồm tiếp tục đối thoại về nhân quyền, thu hẹp những bất đồng về nhận thức giữa hai bên, giải quyết những vấn đề nhân quyền thiết thực trong đó có trách nhiệm của Hoa Kỳ đối với nạn nhân trong chiến tranh, tìm kiếm, hồi hương hài cốt binh sĩ, xử lý ô nhiễm chất độc đi-ô-xin.


Thứ Sáu, 16 tháng 10, 2015

CẦN PHÂN BIỆT RÕ

Có một thực tế lịch sử hiển nhiên cũng cần được làm rõ, trong các nước tư bản chủ nghĩa, dù tồn tại đa đảng và các đảng đối lập, nhưng vẫn định hình một đảng cầm quyền. Chính trường ở đó thường xuyên diễn ra các cuộc tranh giành quyền lực giữa các đảng chính trị tư sản. Họ chỉ đa nguyên, đa đảng trên hình thức, còn trên thực tế đều tỏ rõ sự nhất nguyên, bởi đảng chính trị tư sản nào cũng không bao giờ xa rời mục đích bảo vệ cho quyền thống trị và sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản.
Không phải cứ đa nguyên đa đảng là có thể xây dựng được xã hội dân chủ. Cũng không phải một đảng là trở ngại của sự phát triển dân chủ. Nêu lên quan điểm này người ta đã không tính đến, hoặc vô tình, hoặc cố ý sự khác biệt bản chất giữa các đảng chính trị tư sản và cộng sản, giữa dân chủ tư sản và dân chủ XHCN. Với thực tiễn Việt Nam và đổi mới của Việt Nam, không ai có thể phủ nhận được những bước tiến rõ rệt về dân chủ mà Đảng và nhân dân ta đã đạt được trong những năm qua, trong nỗ lực xây dựng nhà nước pháp quyền, trong thực hành dân chủ, đặc biệt là sự thừa nhận của chính người dân, về những nỗ lực của chúng ta trong việc thực hiện tính công khai, minh bạch, đề cao trách nhiệm trong công tác lãnh đạo, quản lý, trong tranh luận, thảo luận, trong bầu cử, trong cải cách hành chính và cải cách tư pháp… Thành tựu của đổi mới sở dĩ có được là nhờ lực đẩy của dân chủ hóa và chính dân chủ là một trong những thành tựu nổi bật của đổi mới.
Cuộc thảo luận rộng rãi trong toàn dân đóng góp cho các văn kiện Đại hội của Đảng, nhất là cương lĩnh và chiến lược, cho Dự thảo sửa đổi Hiến pháp là một minh chứng rõ rệt cho sự quan tâm đầy trách nhiệm của người dân đối với Đảng và Nhà nước của mình, cũng như nhân dân đã tham gia vào công việc xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước và hệ thống chính trị, tham gia đánh giá về chính sách và luật pháp. Đó là những bằng chứng nói lên sức sống của đời sống chính trị dân chủ ở nước ta. Bởi thế, chắc chắn là, đông đảo các tầng lớp nhân dân sẽ có tiếng nói phê phán với những hoạt động tuyên truyền, những lời kêu gọi đòi đa nguyên đa đảng ở nước ta. Cuộc sống vốn tường minh và nhân dân vốn sáng suốt, công bằng, nhạy cảm đủ sức sàng lọc, phân định để làm rõ chân và giả, thiện chí xây dựng và những toan tính sai lầm, gây hại cho dân, cho nước. Nhân dân đón nhận và ủng hộ những gì công tâm, chính trực và chối từ những ngụy tạo, ác ý.
Tôn trọng sự thật và chân lý để hành động có trách nhiệm, đó là thái độ và sự lựa chọn của chúng ta, từ Đảng đến dân. Trên tất cả các phương diện từ lý luận khoa học đến thực tiễn chính trị cũng như sự trong sáng đạo đức, những ai thiện tâm, thiện chí, vì Tổ quốc, dân tộc và nhân dân đều thấy rõ, Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo và cầm quyền là một thực tế lịch sử, không gì có thể làm dao động lý trí và tình cảm của chúng ta.
Điều 4 trong Hiến pháp đã khẳng định về vai trò lãnh đạo cầm quyền của Đảng. Đó là ý chí của dân, nguyện vọng của dân, đạt được sự đồng thuận rất lớn của xã hội. Đảng ta trong nhận thức và đánh giá của dân, có đầy đủ tính chính đáng pháp lý và sự xứng đáng về phẩm giá và uy tín của một Đảng lãnh đạo và cầm quyền.

Đảng cần ra sức tự vượt lên những hạn chế và khiếm khuyết bằng cách tự đổi mới, tự chỉnh đốn để xứng đáng với trọng trách của mình và niềm tin của dân. Đóng góp vào công việc hệ trọng này là hành động có trách nhiệm của mỗi đảng viên và mỗi người dân. Bảo vệ Đảng, Nhà nước và chế độ, về thực chất là bảo vệ dân, vì cuộc sống bình yên và hạnh phúc của dân, hiện tại cũng như lâu dài.

Thứ Sáu, 10 tháng 7, 2015

CẢM NHẬN CHUYẾN THĂM MỸ CỦA TỔNG BÍ THƯ NGUYỄN PHÚ TRỌNG

         Vậy là tròn đúng 01 năm (7/2014-7/2015) kể từ khi Trung Quốc buộc phải rút giàn khoan (xâm nhập trái phép) khỏi thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Người đứng đầu Đảng Cộng sản Việt Nam –Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có chuyến thăm và làm việc tại Mỹ. Chỉ cần quan sát hoạt động của báo chí và truyền thông trong nước và quốc tế những ngày qua cũng đủ thấy tầm quan trọng, mức độ “hot” của sự kiện đặc biệt này. Lần đầu tiên người đứng đầu của một Đảng Cộng sản mà lại là Đảng duy nhất nắm ngọn cờ lãnh đạo toàn xã hội của một quốc gia (vốn không đội trời chung và căm thù Mỹ sâu sắc trong quá khứ), đến thăm chính thức Mỹ theo lời mời của Tổng thống Mỹ và được đón tiếp theo nghi lễ trang trọng nhất giành cho các nguyên thủ quốc gia. Cũng lưu ý rằng Việt Nam cũng là nước đầu tiên và duy nhất trên thế giới buộc Mỹ phải thua trận và rút về nước (trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam) trong sự nhục nhã (1973). Có lẽ cũng vì nhiều lý do đặc biệt đó mà ngay khi Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng bước vào phòng Bầu dục, Tổng thống Obama đã chỉ tay vào đồng hồ và cười rất tươi như muốn chia sẻ với Tổng Bí thư, hãy lưu giữ lại thời khắc lịch sử đặc biệt này cho cả 2 nước. Có thể nói chuyến thăm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đánh dấu một bước ngoặt mới trong quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam với Mỹ và các nước Phương Tây. Nếu sự kiện bình thường hóa quan hệ Việt Nam- Mỹ (1995) mới chỉ là khúc dạo đầu cho mối quan hệ ấm lên giữa Việt Nam và Mỹ sau nhiều năm thù hận và khác biệt về ý thức hệ, thì chuyến thăm của Tổng Bí thư lần này mới thực sự mở ra một trang mới trong quan hệ ngọai giao giữa 2 nước: thực chất  hơn, tin cậy hơn, toàn diện hơn và hiệu quả hơn. Như vậy, chỉ trong vòng chưa đầy 3 tháng Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có 2 chuyến thăm chính thức tới 2 cường quốc, 2 nền kinh tế nhất, nhì của thế giới. Trong bối cảnh quốc tế, khu vực có nhiều diễn biến phức tạp, đặc biệt tình hình Biển Đông. Các học giả, các chính khách, các trung tâm nghiên cứu, bình luận các sự kiện chính trị- xã hội chắc chắn sẽ có nhiều điều để phân tích, đánh giá khác nhau xung quanh sự kiện này. Dưới góc độ là một công dân, con dân đất Việt chúng ta thật sự vui mừng, phấn khởi và tin tưởng vào đường lối đối ngoại hòa bình, hợp tác, hữu nghị, đa dạng hóa, đa phương hóa… của Đảng và Nhà nước ta trong một thế giới mở và phức tạp như hiện nay. Tuy nhiên, vẫn còn đó sự kỳ vọng và những nỗi lo. Trước hết là sự kỳ vọng, sự mong đợi vào hành động thực tế của mỗi bên sau tuyên bố chung (đầy tốt đẹp, tin cậy, trách nhiệm) của mỗi chuyến thăm. Hành động phải thật sự nhất quán, nói phải đi đôi với làm (đặc biệt là các nước lớn). Sự thuyết phục lớn nhất đối với nhân dân mỗi nước về kết quả của chuyến thăm là ở hành động chứ không phải chỉ ở lời nói.Chính vì vậy, điều này luôn là sự kỳ vọng lớn nhất. Đi liền với sự kỳ vọng là nỗi lo. Nỗi lo “nói một đằng, làm một nẻo”; “miệng nam mô, bụng bồ dao găm” của lãnh đạo cấp cao sau chuyến thăm. Nhân dân Việt Nam vốn chẳng lạ gì với cách hành xử của người “đồng chí’; “người bạn” Trung quốc thời gian vừa qua. Chỉ trong vòng chưa đầy 3 năm (2013-2015), đã có không dưới 3 lần, ngay sau chuyến thăm của lãnh đạo cấp cao 2 nước Việt –Trung với những tuyên bố chan chứa tình “hữu nghị” và sự “hiểu biết”, “tin cậy” lẫn nhau, Trung quốc đã ngay lập tức hành xử theo kiểu “tiền hậu bất nhất”; “nói lời chẳng giữ lấy lời”… Xin dẫn chứng: tháng 5 năm 2014 Trung Quốc ngang nhiên đưa giàn khoan HD 981 xâm nhập trái phép vào vùng biển, thềm lục địa, vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam sau chuyến thăm của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng; gần đây nhất là những tuyên bố và việc làm thiếu trách nhiệm ở Biển Đông, vi phạm nghiêm trọng luật pháp quốc tế và chủ quyền biển đảo của Việt Nam ngay sau chuyến thăm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đến Trung Quốc (4/2015). Lãnh đạo cấp cao Trung quốc là vậy, còn Tổng thống và chính phủ Mỹ thì sao? Thực tế thời gian tới sẽ là câu trả lời chính xác và có sức thuyết phục nhất. Mỹ hay Trung Quốc sẽ làm người Việt Nam thất vọng với cách hành xử như đã nói ở trên!!??

Thứ Ba, 16 tháng 6, 2015

BÌNH ĐẲNG GIỚI

       
        Khi tôi bắt đầu lớn lên tôi thấy tất cả những người đàn bà xung quanh đều phải chịu đựng ít nhiều đau khổ và thiết thòi, từ cụ bà, bà nội, các gì, các mợ, các thím, các cô, cho đến mẹ, người sinh ra và nuôi dưỡng mình. Rồi những tháng ngày tôi đi học đại học, cứ mỗi sáng sớm tinh mơ thứ hai đầu tuần đạp xe từ Bắc Ninh sang Hà Nội, tôi toàn chỉ thấy các bà, các chị. Người đi bộ gồng gánh, người đạp xe miệt mài, bươn bả, thỉnh thoảng mới bắt gặp một vài hình bóng đàn ông. Tôi tự hỏi cuộc chiến cho sự bất bình đẳng giới ở Việt Nam nói riêng và trên thế giới nói chung bao giờ mới đến hồi kết thức. Nếu để nói về họ (những người phụ nữ) có lẽ cả đời cũng không nói hết. Mỗi người có một nỗi khổ riêng, nhưng họ sống rất bình thản như chẳng có việc gì xảy ra. Tựụ chung họ đều có một điểm giống nhau đó là sự chịu đựng, bền bỉ, đến mức nó trở nên bình thường hơn cả bình thường! Mình là đàn ông mình cảm nhận về phụ nữ như vây! còn mọi người thì sao??

Thứ Sáu, 17 tháng 4, 2015


Cảm nhận từ phía sau một số sự kiện xã hội những tuần qua

Tuần qua nổi lên một số sự kiện xã hội rất đáng quan tâm:
Trước hết, là chuyến thăm Trung Quốc của Đoàn Đại biểu Đảng và Nhà nước ta do Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng dẫn đầu (7/4/2015). Chuyến thăm của Tổng Bí thư diễn ra trong thời điểm chỉ còn chưa đầy một tháng nữa là tròn 1 năm diễn ra sự kiện Trung Quốc ngang nhiên hạ đặt trái phép giàn khoan HD- 981 vào vùng biển và thềm Lục Địa của Việt Nam, vi phạm nghiêm trọng Luật pháp Quốc tế và chủ quyền biển đảo của nước ta, tạo nên tâm lý bức xúc, bất bình trong các tầng lớp nhân dân cả trong nước và trên thế giới. Là con dân Đất Việt chúng ta rất vui mừng trước kết quả của chuyến thăm, khi mà lãnh đạo cấp cao nhất của cả 2 nước đã trao đổi thẳng thắn và đạt được nhận thức chung quan trọng, sâu rộng về  một số định hướng và biện pháp lớn nhằm củng cố tin cậy, tăng cường hữu nghị, thúc đẩy hợp tác cùng có lợi trên tất cả các linh vực, đưa quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện phát triển thực chất, lành mạnh, ổn định và bền vững trong thời gian tới. Tuy nhiên, vẫn còn đó nỗi lo. Lo cho sự bền vững và tính khả thi của những tuyên bố, những thỏa thuận  cấp cao giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đã không dưới 2 lần chỉ trong vòng  3  năm (2012-2014) Trung Quốc đã đơn phương vi phạm những thỏa thuận cấp cao giữa 2 nước Việt Nam, Trung Quốc, mà gần đây nhất là sự kiện giàn khoan Hải Dương HD-981xâm nhập trái phép vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam (5/2014)… vi phạm nghiêm trọng luật pháp Quốc tế và công ước của Liên hợp quốc  về Luật Biển 1982. Rõ ràng, sự  băn khoăn, lo lắng, hoài nghi của mỗi người dân Việt Nam hiện nay là có cơ sở. Thực tế những năm qua đã làm cho chúng ta chưa thật sự có lòng tin vào những tuyên bố của lãnh đạo cấp cao Trung Quốc. Bởi lẽ, đã có không ít lầnTrung Quốc nói đâu có đi đôi với làm; “nói một đằng làm một nẻo”...  Chúng ta cũng hoàn toàn nhất trí với quan điểm của Tổng bí thư  hai nước Việt-Trung trong chuyến thăm Trung Quốc vừa qua của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng  cho rằng:  “quan hệ hai nước có giai đoạn khó khăn, hiện nay một số lĩnh vực hợp tác chưa đi vào thực chất, hiệu quả chưa cao; trở ngại lớn nhất chính là sự tin cậy chính trị chưa cao, chủ yếu là do bất đồng trong cách ứng xử, giải quyết vấn đề trên Biển Đông, tác động tiêu cực đến tâm tư, tình cảm của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân”. Chỉ có sự tin cậy chính trị rất cao; chỉ có lòng tin chiến lược sâu sắc mới có thể tạo nên sự hợp tác, hữu nghị và hòa bình thực sự. Người dân Việt Nam có câu thành ngữ “mất lòng tin là mất tất cả”. Lòng tin là khởi nguồn của mọi quan hệ hữu nghị, hợp tác; là liều thuốc hiệu nghiệm để ngăn ngừa những toan tính có thể gây ra nguy cơ xung đột. Lòng tin cần được nâng niu, vun đắp không ngừng bằng những hành động cụ thể, nhất quán, phù hợp với chuẩn mực chung và với thái độ chân thành. Nếu cứ “nói một đằng, làm một nẻo”, “nói không đi đôi với làm”; “rồi tiền hậu bất nhất “- như cách nói của người Trung Quốc thì mọi tuyên bố chỉ là những lời hoa mĩ tồn tại trên giấy mà thôi. Mỗi người dân Việt Nam chúng ta luôn hy vọng, mong mỏi và chờ đợi không chỉ ở lời nói (tuyên bố) mà quan trọng hơn là cách hành xử “thấu tình, đạt lý”; “trước sau như một”; “nói lời phải giữ lấy lời” của lãnh đạo cấp cao Trung Quốc trong thời gian tới…
Sự kiện thứ 2: Ngay sau khi từng đoàn xe tải chở dưa hấu từ các địa phương trên cả nước (trong đó có Quảng nam)  ra Bắc và bị ách tắc tại của khẩu Lạng Sơn nhiều ngày. Dưa đã bắt đầu hỏng lại không bán được trong nước vì giá quá rẻ…  và nước mắt của những người nông dân đã rơi. Ngay lập tức các cư dân mạng đã vào cuộc, vận động ủng hộ người trồng dưa bằng cách kêu gọi người tiêu dùng (đặc biệt ở Hà Nội và TP Hồ Chí Minh) bỏ tiền mua dưa như một cách thiết thực, chung tay giúp những nông dân nghèo đang trong cơn khốn khó. Sư kiện này một lần nữa lại minh chứng rõ thêm những đức tính quý báu của người Việt Nam ta: “thương người như thể thương thân”; “lá lành đùm lá rách”; “tương thân, tương ái”; :chia ngọt, sẻ bùi”… Tuy nhiên, sự kiện này cũng lại tiếp tục phản ánh sự bế tắc trong quản lý, điều hành và phát triển ngành nông nghiệp Việt Nam hiện nay. Bài ca muôn thuở “được mùa rớt giá”; “mất mùa được giá” vẫn vang lên đầy thách thức bên tai nông dân và tâm lý làm ăn manh mún, “ăn sổi ở thì” của người nông dân vẫn diễn ra khá phổ biến, chẳng màng tới các quy luật của kinh tế thị trường. Chỉ có một nền nông nghiệp với cách quản lý, điều hành khoa học, tuân thủ đúng đắn các quy luật của kinh tế thị trường và sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng của cả 4 “nhân vật”: Nhà nông – Nhà khoa học- Nhà Doanh nghiệp- Nhà nước, chúng ta mới hy vọng có một nền nông nghiệp phát triển bền vững và đời sống  của người nông dân mới thực sự được cải thiện. Lúc đó cộng đồng cư dân mạng chắc có lẽ cũng không phải vất vả như thời gian vừa qua.

Sự kiện thứ 3: Trong vài tuần trở lại đây người dân và nhiều tổ chức xã hội đã đổ xô đi mua sắm thiết bị camera giám sát để lắp đặt tại tư gia (nơi ở, nơi kinh doanh) và nơi công sở. Nhiều nhất trong số đó là trường học từ mầm non đến đại học (để giám sát lớp học); phòng hỏi cung của cơ quan điều tra (để giám sát cán bộ hỏi cung); địa điểm làm việc của cảnh sát giao thông (giám sát hành vi của cảnh sát giao thông); Các khu công nghiệp (để giám sát các bếp ăn của công nhân)… Sự kiện người dân và các công sở đổ xô đi mua camera giám sát trong những tuần vừa qua gợi cho chúng ta suy nghĩ 2 điều: Thứ nhất, thu nhập của người dân đã khá hơn trước rất nhiều. Việc lắp đặt camera không còn là thứ xa vời, quá khó đối với thu nhập của họ như cách đây 10-15 năm trước. Thứ hai: ở một khía cạnh khác rất cần quan tâm và suy ngẫm, đó là sự trung thực, lòng tin giữa con người với con người trong xã hội đang dần bị xuống cấp nghiêm trọng. Người ta phải viện đến các phương tiện kỹ thuật để kiểm tra, giám sát, đo đếm sự trung thực và lòng tin lẫn nhau. Tuy nhiên, rất cần những nhà quản lý và mỗi người dân hãy tự hỏi: nếu con người không thật sự  tự giác, trung thực từ cái tâm của mình thì có camera nào giám sát được  hết và chính xác hành vi của con người không? Vấn đề mấu chốt có lẽ vẫn là sự giáo dục, đạo đức và hành vi tự giác từ chính lương tâm hướng thiện của mỗi con người.

Thứ Tư, 8 tháng 4, 2015

Góc nhìn xã hội học:                     MỘT SỐ BIỂU HIỆN VỀ SỰ SUYTHOÁ...

Góc nhìn xã hội học:                     MỘT SỐ BIỂU HIỆN VỀ SỰ SUYTHOÁ...:                     MỘT SỐ BIỂU HIỆN VỀ SỰ SUY THOÁI TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ Thật không khó để có thể nhận thấy biểu hiện của sự suy thoái về ...
                    MỘT SỐ BIỂU HIỆN VỀ SỰ SUY THOÁI TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ
Thật không khó để có thể nhận thấy biểu hiện của sự suy thoái về tư tưởng chính trị trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên hiện nay đó là:
Không ít cán bộ, Đảng viên phai nhạt lý tưởng cách mạng, mơ hồ, giao động, hoài nghi về con đường đi lên CNXH, hoài nghi về khả năng lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước; một số cán bộ, Đảng viên đương chức có vai trò quan trọng trong công tác nghiên cứu, tham mưu và chỉ đạo hoạt động thực tiễn ở các ngành, các địa phương chưa thật sự thống nhất trên trên một số vấn đề cơ bản về quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách lớn của Đảng; nhiều cán bộ, Đảng viên, kể cả đương chức hay nghỉ hưu tuy vẫn trung thành với Đảng nhưng lại thụ động thiếu bản lĩnh, không dám lên tiếng đấu tranh với những kẻ cơ hội; một số cán bộ, Đảng viên do bất mãn cá nhân, cơ hội, tiếp tay cho địch, tuyên truyền quan điểm sai trái, độc hại trong xã hội. Một số do nhận thức không đầy đủ, đúng đắn, trong đó có cả cán bộ đã từng cống hiến lâu năm cho cách mạng, bị các thế lực xấu trong và ngoài nước tâng bốc, đã ngấm ngầm hoặc công khai phát tán tài liệu, truyền bá những quan điểm sai trái với chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Nguyên trực tiếp của những biểu hiện nêu trên có lẽ là do những yếu kém trong công tác tư tưởng của Đảng. Tình trạng dân chủ hình thức và thiếu kỷ luật, kỷ cương trong sinh hoạt Đảng diễn ra khá phổ biến ở nhiều tổ chức Đảng. Chưa chủ động, kịp thời và kiên quyết đấu tranh chống các tư tưởng trái chiều, ngại va chạm, không dám đấu tranh phê bình những tiêu cực trong nhận thức, tư tưởng chính trị sai trái trong tổ chức mà mình tham gia. Nhiều cán bộ, Đảng viên ít quan tâm đến học tập, bồi dưỡng lý luận chính trị, thiếu ý thức trách nhiệm trong việc tổ chức thực hiện, nói không đi đôi với làm. Tình trạng quan liêu, tham nhũng tràn lan chậm được khắc phục. Có thể nói, đó chính là quá trình “ tự diễn biến”; “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng, góp phần làm cho tư tưởng chính trị của toàn Đảng dễ bị phân liệt, lòng dân ly tán, rất dễ dẫn đến khủng hoảng niềm tin.

Để ngăn chặn và đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị trong Đảng và trong xã hội, thiết nghĩ chúng ta cần kiên trì thực hiện: tiếp tục tăng cường sự thống nhất trong Đảng về nhận thức, ý chí và hành động trên cơ sở thực hiện đúng nguyên tắc Đảng trong hoạt động của mọi tổ chức Đảng và từng Đảng viên; đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn ở tất cả các cấp ủy Đảng; đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục về chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước; đấu tranh chống các quan điểm, tư tưởng chính trị lệch lạc, sai trái, sớm phát hiện và sử lý kịp thời những vấn đề bức xúc về tư tưởng phát sinh; mỗi tổ chức Đảng đều phải thực hiện nghiêm túc tự phê bình và phê bình, chống suy thoái về tư tưởng ngay trong mỗi tổ chức Đảng mà Đảng viên là thành viên.

Thứ Năm, 12 tháng 3, 2015

Cảnh giác “Diễn biến hòa bình” trên địa bàn Tây Nguyên hiện nay


Thực hiện âm mưu “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ để nhằm tách Tây Nguyên thành một nhà nước riêng của người dân tộc, những năm qua được sự hỗ trợ từ bên ngoài, trên địa bàn tình Tây Nguyên, bọn phản động trong ngoài nước vẫn tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động chống phá với những thủ đoạn chủ yếu như:
Tuyên truyền, kích động nhằm làm giảm lòng tin của nhân dân các dân tộc thiểu số thông qua việc xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng nhất là chính sách về dân tộc, tôn giáo; vu cáo, nói xấu Đảng, chính quyền nhà nước đàn áp dân tộc, tôn giáo, kết hợp với dụ dỗ, xúi giục, làm cho tư tưởng ly khai, tư tưởng bài kinh ăn sâu vào tiềm thức của một bộ phận người dân tộc thiểu số, nhất là thanh, thiếu niên, học sinh, sinh viên; công khai chống Đảng, chính quyền cơ sở; nuôi dưỡng, hy vọng thành lập “Nhà nước Đề Ga” của người dân tộc thiểu số trên địa bàn Tây Nguyên. Lợi dụng những sơ hở trong thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta và những vấn đề bức xúc liên quan đến sản xuất, đất làm nhà, về đời sống, việc làm và những mâu thuẫn giữa một bộ phận người dân tộc thiểu số và một bộ phận người Kinh, mâu thuẫn từ nội bộ người dân tộc thiểu số tại chỗ để kích động, gây tranh chấp, khiếu kiện. Lợi dụng tự do, tín ngưỡng, tôn giáo để tuyên truyền, phát triển đạo tin lãnh, tổ chức phát triển các tà đạo và truyển đạo trái phép, kích động tư tưởng hận thù dân tộc. Cùng với luận điệu kích động, ly khai, bọn phản động FULRO kích động đấu tranh đòi quân đội, công an rút khỏi Tây Nguyên; yêu cầu quân đội, công an không được kiểm tra, kiểm soát, đóng quân ở những buôn làng của người dân tộc thiểu số, tuyên truyền, vận động con em là người dân tộc thiểu số không tham gia nghĩa vụ quân sự, không đi làm việc cho người Kinh.
 Trong thời gian tới, tình hình thế giới, khu vực sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường. Các thế lực thù địch sẽ tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động chống phá cách mạng Việt Nam với phương thức ngày càng tinh vi, xảo quyệt, thâm độc. Chúng ta cần thực hiện tốt một số nội dung cơ bản sau:
Một là, tiếp tục tuyên truyền, giáo dục làm cho mọi cán bộ, Đảng viên và đồng bào các Dân tộc Tây Nguyên nhận thức và hiểu rõ về chủ trương, chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng, nhà nước; phát huy truyển thống yêu nước, lòng tự hào, tự tông dân tộc, xây dựng lòng tin, sự trung thành của nhân dân, của đồng bào các dân tộc đối với Đảng, Nhà nước và chế độ XHCN.
Hai là, tăng cường củng cố, kiện toàn, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở. Không ngững nâng cao vai trò lãnh đạo của cấp ủy Đảng, quản lý, điều hành của chính quyền và năng lực vận động quần chúng của các đoàn thể chính trị, các già làng, trưởng bản, các chức sắc tôn giáo. Tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng; thực hiện thường xuyên có hiệu quả tự phê bình, phê bình theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về xây dựng Đảng. Đi đôi với việc xây dựng, củng cố tổ chức Đảng ở cơ sở trong sạch, vững mạnh toàn diện, cần phải rèn luyện đội ngũ cán bọ, Đảng viên, đẩy mạnh công tác phát triển Đảng ở cơ sở trong đồng bào các dân tộc, vùng sâu, vùng xa.
Ba là, tập trung xây dựng, phát triển kinh  tế xã hội, nâng cao mọi mặt đời sống vật chất tinh thần cho đồng bào các dân tộc, coi đây là một biện pháp quan trọng hàng đầu trong cuộc đấu tranh phòng, chống “Diến biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Cần có quy hoạch, kế hoạch phát triển toàn diện, đồng bộ, chú trọng tập trung đầu tư có trọng điểm vào các lĩnh vực xây dựng kết cấu hạ tầng như: điện, đường, giao thông, y tế, giáo dục… vào những vùng trọng điểm, vùng sâu, vùng xa; từng bước nâng cao trình độ dân trí và đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; sớm đưa đồng bào các dân tộc thoát khỏi sự đói nghèo, kém phát triển; giảm dần sự phân hóa giàu nghèo, sự chênh lệch về mức sống trong cộng đồng dân cư.

Bốn là, kết hợp chặt chẽ xây dựng và phát triển kinh tế- xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh, thực hiện giữ vững ổn định chính trị- xã hội, bảo vệ vững trắc chủ quyền an ninh biên giới và nội địa; phấn đấu đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế, tăng cường tiểm lực quốc phòng.

Thứ Năm, 8 tháng 1, 2015

Cảnh giác với “Diễn biến hòa bình”
Hiện nay trên các phương tiện thông tin đại chúng trong và ngoài nước, nhất là trên mạng internet, đã xuất hiện những bài viết, trả lời phỏng vấn thể hiện sự “tự diễn biến”; “tự chuyển hóa” về tư tưởng. Tác giả của những bài đó công khai xét lại chủ nghĩa Mác-Lênin, tôn vinh những quan điểm sai trái của các thế lực thù địch, tạo nên  những bi quan, hoang mang, hoài nghi trong tư tưởng của cán bộ, Đảng viên, gây ra sự chia rẽ nội bộ làm yếu sức đề kháng, tạo cơ sở thuận lợi cho sự thâm nhập dễ dàng của chiến lược “Diễn biến hòa bình”, dẫn đến sự lây lan của “tự diễn biến”; “tự chuyển hóa”. Cùng với điều đó, một số tờ báo vô tình hay hữu ý đã không ngừng mô tả những bức tranh ảm đạm về mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… rồi bình luận lập lờ, vòng vo hoặc suy diễn trực tiếp, quy nguyên nhân về phía chủ trương của Đảng, chính sách quản lý của Nhà nước, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và con đường XHCN mà chúng ta đã lựa chọn. kẻ thù còn quyết liệt hơn khi chúng tấn công vào lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn, giáo dục và đào tạo, văn học, nghệ thuật… Bên cạnh những hiệu quả tích cực mà lĩnh vực này đem lại, cũng cần luôn lưu ý đây là một môi trường rất thuận lợi, là cầu nối để các thế lực phản động lợi dụng thực thi mưu đồ lâu dài cho việc chống phá hệ tư tưởng của chúng ta bằng các hình thức thích hợp “thay chất, đổi màu” các thế hệ tương lai…
Tất cả những điều đó cùng với những yếu kém, những bức xúc của xã hội, đã làm cho “trong Đảng đã xuất hiện các ý kiến khác nhau về một số vấn đề cơ bản liên quan đến đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, ảnh hưởng tới sự thống nhất tư tưởng. Trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, kể cả trong những lực lượng  nòng cốt, gắn bó với đảng, với chế độ đã phát sinh một số vấn đề tư tưởng, tâm trạng bức xúc, đáng lo ngại, ảnh hưởng tới tính đồng thuận xã hội”.[i] Trong bối cảnh đó, nội bộ ta đã xuất hiện những dấu “tự diễn biến”; “tự chuyển hóa” cả về tư tưởng và hành động.
Phòng chống “tự diễn biến”; “tự chuyển hóa” là nhiệm vụ cấp bách hàng đầu đặt ra cho công tác tư tưởng của đảng hiện nay. Thiết nghĩ, chúng ta cần làm tốt một số giải pháp cơ bản sau:
Một là, tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác nghiên cứu lý luận. Tăng cường nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn làm sáng tỏ một số vấn đề về Đảng cầm quyền, về CNXH, con đường đi lên CNXH ở nước ta và những vấn đề mới nảy sinh trong quá trình đổi mới. Tạo môi trường dân chủ thảo luận, tranh luận khoa học, khuyến khích tìm tòi, sáng tạo, phát huy trí tuệ của cá nhân và tập thể trong nghiên cứu lý luận, bảo đảm sự thống nhất ý chí và hành động của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trên nền tảng tư tưởng. Muốn có sự thống nhất về tư tưởng và hành động phải có chủ nghĩa làm cốt. Do vậy, xây dựng cho được hệ thống quan điểm lý luận thật sáng tỏ có tính thuyết phục và cơ sở khoa học và thực tiễn về CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta; kiên trì và sáng tạo chủ nghĩa Mác- Leenin, tưởng Hồ Chí Minh là điều tiên quyết mang tính cơ bản, giữ vị trí nền tảng của an ninh tư tưởng hiện nay.
Hai là, thường xuyên đổi mới nội dung, phương thức giáo dục, nâng cao hơn nữa tính chiến đấu, tính thuyết phục của công tác tư tưởng.
Tích cực tuyên truyền học tập chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Tuyên truyền, cổ vũ, động viên các nhân tố mới, điển hình tiên tiến, gương người tốt, việc tốt, giáo dục truyền thống yêu nước, cách mạng. Từ bỏ phương pháp truyền tải theo lối nhồi nhét, khắc phục tình trạng lười học tập lý luận chính trị hoặc có học nhưng không đến nơi đến chốn.
Ba là, đẩy mạnh cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh với những phương phức phong phú, sinh động theo hướng toàn diện- hiệu quả, thiết thực - lan tỏa và có tác dụng lâu dài. Không nên chỉ học tập mà cần tích cực tuyên truyền, vận động mọi tổ chức, cá nhân phấn đấu làm theo tấm gương đạo đức của Bác, hướng vào những việc làm cụ thể gắn với từng cơ quan, đơn vị, tránh biểu hiện phô trương, hình thức, không hiệu quả. Đưa cuộc vận động thấm sâu vào từng cấp, từng ngành và từng đơn vị, trong đó đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt phải là lực lượng tiên phong, gương mẫu.
Bốn là, kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.
Cần chủ động phòng ngừa, đấu tranh, phê phán âm mưu, thủ đoạn “Diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa một cách đồng bộ, chủ động, kịp thời, sắc bén. Cần nắm vững phương pháp luận Mác xít, nhận thức đúng xu hướng phát triển của thời đại, những thành tựu mới nhất của khoa học và thực tiễn xã hội mới nảy sinh để tổng kết, rút ra kết luận mới, bổ sung, hoàn thiện lý luận mác xít. Nhạy bén phát hiện và kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch, chủ nghĩa cơ hội giả danh mác xít để chống phá, những phần tử xét lại, đầu hàng, thỏa hiệp vô nguyên tắc, những phần tử thoái hóa, biến chất chống đối từ bên trong.
                                                                 Ngày 09 tháng 01 năm 2015




[i] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, tr.34.