Thứ Hai, 20 tháng 3, 2017

Phê phán luận điểm “Muốn thực sự có dân chủ cho người dân và xã hội phát triển phải thực hiện “đa nguyên, đa đảng”

Trong quá trình thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” chống phá cách mạng Việt Nam, các thế lực thù địch rất quan tâm đến việc chống phá Đảng Cộng sản Việt Nam, chúng luôn tìm mọi cách để hạ thấp và đi đến phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng ta đối với cách mạng Việt Nam, đối với xã hội Việt Nam. Nhưng trên cả lý luận và thực tiễn đều khẳng định, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định bảo đảm cho người dân được thực sự dân chủ, bảo đảm cho xã hội Việt Nam được từng bước phát triển bền vững, vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đây là cơ sở quan trọng để phê phán, bác bỏ quan điểm của các thế lực thù địch, cơ hội cho rằng, muốn có dân chủ cho người dân và xã hội phát triển thì phải thực hiện đa nguyên, đa đảng.
Các thế lực thù địch thường xuyên tuyên truyền, kích động, kêu gọi tán dương, cổ súy cho quan điểm “đa nguyên, đa đảng”, “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập”, nhất là vào dịp chúng ta tổ chức Đại hội Đảng. Đặc biệt, trong thời gian chúng ta tổ chức cho toàn Đảng, toàn dân góp ý vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, trên các trang mạng xã hội đã xuất hiện rất nhiều “ý kiến đóng góp” yêu cầu xóa bỏ Điều 4 trong Hiến pháp năm 1992, “xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam”, đòi thực hiện chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập ở Việt Nam. Họ thường rêu rao rằng, muốn cho người dân thực sự có dân chủ, muốn cho xã hội phát triển thì phải thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập.
Nghiên cứu chế độ đa đảng ở các nước phương Tây có thể nhận thấy, bề ngoài thì các đảng chính trị có vẻ như được tự do, bình đẳng tranh cử để trở thành đảng cầm quyền, chi phối quốc hội và chính phủ, nhưng thực chất bên trong, cũng chỉ có những đảng lớn được sự ủng hộ của các thế lực tư bản độc quyền mới giành được vai trò chấp chính. Đảng Cộng sản ở các nước tư bản không bao giờ được bình đẳng trong tranh cử.
Thực tiễn ở các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, nhất là ở Liên Xô trước đây cũng cho thấy, từ khi chấp nhận bỏ Ðiều 6 trong Hiến pháp của Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết, đã dẫn đến tình trạng xuất hiện đa đảng và hậu quả là, Ðảng Cộng sản Liên Xô đã dần dần đánh mất quyền lãnh đạo xã hội. Những sự thỏa hiệp về “dân chủ hóa”, về “công khai hóa” hay “đa nguyên chính trị”, không những không làm cho người dân được dân chủ hơn, không làm cho xã hội phát triển hơn, mà còn là mảnh đất rất màu mỡ cho các thế lực thù địch đẩy mạnh các hoạt động chống phá, làm cho chế độ xã hội chủ nghĩa theo mô hình Xô viết ở Liên Xô nhanh chóng sụp đổ.
Một số nước khác tuy có hệ thống chính trị đa nguyên, đa đảng nhưng vẫn thường xuyên xảy ra khủng hoảng chính trị, đảo chính làm cho xã hội bất ổn. Những bất ổn chính trị ở Ucraina hay ở Thái Lan diễn ra trong thời gian gần đây là do nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chủ yếu là do đảng cầm quyền và đảng đối lập mâu thuẫn với nhau về lợi ích, dẫn đến đảng đối lập đã kích động quần chúng biểu tình, đưa yêu sách lật đổ chính phủ hợp pháp đang điều hành đất nước. Hậu quả là, quyền dân chủ của người dân bị lợi dụng phục vụ cho mục đích riêng của từng đảng; xã hội gặp phải những khó khăn, trở ngại trong quá trình phát triển. Như vậy, rõ ràng là, đâu phải cứ có đa đảng mới có dân chủ, mới bảo đảm cho xã hội phát triển!
Thực chất luận điểm “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập” là luận điểm mang nặng tính chất mị dân, rất dễ gây nên sự ngộ nhận, nhất là đối với những người có nhận thức hạn chế, từ đó có thể gây nên sự mơ hồ, lẫn lộn, có thể dẫn tới sự dao động về tư tưởng, hoài nghi về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với cách mạng Việt Nam, đối với xã hội Việt Nam; gây nên sự phân tâm trong xã hội; làm suy giảm và có thể đi đến mất dần niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Thực chất của luận điểm “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập” là tìm cách xóa bỏ nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, lái nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta sang nền dân chủ tư sản; gây nên những khó khăn trong quá trình phát triển của xã hội Việt Nam, nhất là làm cho chính trị - xã hội không ổn định, kinh tế suy giảm, văn hóa xuống cấp, các mâu thuẫn và xung đột xã hội ngày càng gia tăng, phá vỡ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Và nếu cứ nghe theo “lời khuyên” của các thế lực thù địch, cơ hội, chiều theo sự đòi hỏi phi lý của những người (hoặc là do thiếu hiểu biết, hoặc là do động cơ không trong sáng) để thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, thì điều gì sẽ xẩy ra? Điều chắc chắn có thể khẳng định là, chế độ xã hội chủ nghĩa sẽ đứng trước nguy cơ bị tan rã, chẳng những người dân không được dân chủ, mà xã hội cũng rơi vào rối loạn, khủng hoảng, đình trệ, không phát triển được.
Thực hiện chế độ nhất nguyên chính trị, một Đảng Cộng sản Việt Nam duy nhất lãnh đạo xã hội Việt Nam là sự lựa chọn đúng đắn của lịch sử cách mạng Việt Nam, sự lựa chọn đúng đắn của chính nhân dân Việt Nam trong quá trình đấu tranh cách mạng đầy khó khăn, gian khổ, hy sinh. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là một hiện tượng hoàn toàn hợp quy luật, phản ánh những điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan đã chín muồi trong quá trình vận động của cách mạng Việt Nam. Thực tiễn cho thấy, khác với tình hình của nhiều nước trên thế giới, ở Việt Nam, ngay từ khi mới ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã là lực lượng duy nhất lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Điều đó không phải là do mong muốn chủ quan của Đảng, mà chính là sự giao phó của lịch sử, của cách mạng Việt Nam thông qua quá trình sàng lọc, lựa chọn một cách đúng đắn. Bằng sự thể nghiệm xương máu trong cuộc đấu tranh cách mạng với bao khó khăn, gian khổ, hy sinh của nhiều thế hệ người Việt Nam, mà nhân dân ta đã lựa chọn và thừa nhận, Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất lãnh đạo cách mạng Việt Nam, là bảo đảm cho người dân có dân chủ thực sự, xã hội phát triển tiến bộ.
Thực tế lịch sử cách mạng Việt Nam trong hơn 87 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam cho thấy, Đảng Cộng sản Việt Nam đã hoàn toàn xứng đáng với sự lựa chọn, giao phó của lịch sử, sự tin cậy của nhân dân. Đảng đã lãnh đạo nhân dân làm nên thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhà nước công - nông đầu tiên ở Đông Nam Á; đưa dân tộc ta từ một dân tộc không có độc lập đến một dân tộc độc lập, có tên trên bản đồ thế giới; đưa nhân dân ta từ kiếp nô lệ đến dân chủ, tự do, hạnh phúc. Sau đó Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân tiến hành thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, miền Bắc được giải phóng và đi lên chủ nghĩa xã hội. Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành thắng lợi cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.


Tiếp đó, Đảng đã khởi xướng và lãnh đạo nhân dân tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội và đã giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đất nước ta đã thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Đặc biệt, trong quá trình tiến hành công cuộc đổi mới đất nước vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, Đảng và Nhà nước ta tiếp tục ban hành nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật nhằm phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được xác định đầy đủ hơn trong Hiến pháp năm 2013 và trong hệ thống pháp luật mới được ban hành và sửa đổi. Khẳng định rõ các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ. Quyền làm chủ của nhân dân được phát huy tốt hơn trong các lĩnh vực của đời sống xã hội bằng dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện, nhất là trong lĩnh vực chính trị và kinh tế. Nhiều cấp ủy đảng, chính quyền đã lắng nghe, tăng cường tiếp xúc, đối thoại với nhân dân, tôn trọng các loại ý kiến khác nhau. Coi trọng chăm lo hạnh phúc và sự phát triển toàn diện của con người, bảo vệ và bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của con người, tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà nước ta ký kết.../.

Chủ Nhật, 12 tháng 3, 2017

THƯỜNG XUYÊN TỰ ĐỔI MỚI, TỰ CHỈNH ĐỐN - QUY LUẬT
 TỒN TẠI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA ĐẢNG TA

Đổi mới là từ bỏ những gì là lệch lạc, lỗi thời hay sai trái để đi đến những cái mới, đúng đắn hơn, tiến bộ hơn. Chỉnh đốn Đảng là sắp xếp lại những cái vốn có trước đây và đến nay vẫn đúng nhưng đã bị làm sai lệch để mọi công việc đi vào nền nếp, luôn phát huy tốt tác dụng. Đổi mới, chỉnh đốn không phải để Đảng xa rời bản chất khoa học và cách mạng mà là giữ vững và tăng cường bản chất ấy; khẳng định rõ hơn mục tiêu, lý tưởng của Đảng là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; làm cho Đảng ta mãi mãi là một Đảng cách mạng chân chính, luôn xứng đáng với sự tin yêu, kính trọng, sự tôn vinh của nhân dân. Trong bất luận điều kiện, hoàn cảnh nào, Đảng cũng đều quan tâm đến vấn đề xây dựng, chỉnh đốn, tự đổi mới, làm cho Đảng luôn ngang tầm yêu cầu nhiệm vụ cách mạng. Đảng phải nâng tầm cao trí tuệ, bản lĩnh, kiên định về lập trường, tư tưởng; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của mỗi tổ chức đảng, mỗi cán bộ, đảng viên. Hiện nay, Đảng ta tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái tư tưởng chính trị, phòng, chống suy thoái đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ theo Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) của Đảng là sự phù hợp với quy luật tồn tại và phát triển của Đảng trong tình hình mới. Mọi luận xuyên tạc, mọi hành động lợi dụng công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng theo Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) của Đảng để phủ nhận vai trò của Đảng, chống phá sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta là hoàn toàn sai trái.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế mới là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”. Thực hiện chỉ dẫn của Người, trong những năm qua, Đảng luôn quan tâm đến vấn đề xây dựng, chỉnh đốn, tự đổi mới, làm cho Đảng luôn ngang tầm yêu cầu nhiệm vụ cách mạng, thật sự là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Đồng thời, Đảng phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn để đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.Đảng phải thay đổi tư duy về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh hiện nay. Đây là bước chuyển mang ý nghĩa đặc biệt quan trọng, dù đó là bước chuyển vô cùng khó khăn, phức tạp, nhất là đối với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Tính tất yếu khách quan của thực tiễn công cuộc đổi  mới  đất  nước quy định sự cần thiết Đảng phải vươn lên ngang tầm nhiệm vụ chính trị của một Đảng cầm quyền. Đó là việc nâng tầm cao trí tuệ, bản lĩnh, sự kiên định vững vàng về lập trường, tư tưởng; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của mỗi tổ chức đảng, mỗi cán bộ, đảng viên. Thực tế chỉ ra rằng, tầm của Đảng nói chung, của mỗi tổ chức đảng, mỗi cán bộ, đảng viên nói riêng thể hiện rõ ở kết quả hoàn thành nhiệm vụ được giao, ở giá trị vật chất, tinh thần đem lại cho tập thể, cộng đồng và nhân dân. Sự tiến bộ, trưởng thành của mỗi tổ chức đảng, của đội ngũ cán bộ, đảng viên là sự đóng góp thiết thực, hiệu quả nhất đối với việc nâng tầm cao uy trí, vị thế của một Đảng Cộng sản cầm quyền.
Trước đây, trong lãnh đạo nhân dân ta tiến hành kháng chiến, cứu nước, tầm của Đảng ta thể hiện rất rõ trong lãnh đạo nhân dân ta kiên quyết đấu tranh, giành thắng lợi, đem lại hòa bình, độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Ngày nay, yêu cầu nhiệm vụ mới đòi hỏi tầm của Đảng Cộng sản cầm quyền phải được nâng lên với trình độ mới cao hơn, trên cơ sở bổ sung, cập nhật thế giới quan, nhân sinh quan, phương pháp luận khoa học, cách mạng, bao hàm cả khoa học quản lý, khoa học tổ chức, khoa học lãnh đạo và khoa học, nghệ thuật quân sự...
Hiện nay, việc nâng tầm của Đảng cần tiếp tục kiên trì quan điểm đổi mới; trong đó, đổi mới tư duy vẫn là vấn đề trước tiên, mang ý nghĩa quyết định, chi phối việc đổi mới ở các lĩnh vực khác. Đảng cần tiếp tục đổi mới tư duy về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; trọng tâm là đổi mới tư duy về lĩnh vực kinh tế. Đây là cơ sở nền tảng quy định sự tồn tại, phát triển của chế độ xã hội ta và nó đang là vấn đề thời sự nóng bỏng nhất, có ý nghĩa quyết định đưa nước ta thoát ra khỏi “cái bẫy”thu nhập trung bình, giữ vững sự ổn định tình hình đất nước, đồng thời là cơ sở để tìm ra mô hình cũng như con đường để đưa nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế hiện nay. Điều quan trọng là phải đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, cung cấp luận cứ, nội dung khoa học cho đổi mới tư duy, đúc kết, khái quát lý luận từ thực tiễn hơn 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới vừa qua do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo.
Cùng với đổi mới tư duy, cần tiếp tục đổi mới về tổ chức để bộ máy của Đảng từ Trung ương đến cơ sở vận hành thông thoáng, tốt hơn, tránh được sự chồng chéo, trùng lắp về chức năng, nhiệm vụ, tinh giảm được biên chế, nâng cao được hiệu lực, hiệu quả công tác. Thực hiện được điều đó thì công tác tổ chức của Đảng mới thích ứng, phù hợp với vai trò của một đảng cầm quyền trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Hơn lúcnào hết, Đảng đang cần có một đội ngũ cán bộ, đảng viên có đủ phẩm chất và năng lực, có tư duy đổi mới, có trình độ, khả năng thực hiện đổi mới, có bản lĩnh chính trị kiên định vững vàng; không suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Điều này chỉ có thể đạt được khi Đảng kiên quyết chống mọi biểu hiện lệch lạc như: “bệnh” quan liêu, tham nhũng, lãng phí; mất dân chủ, thành kiến, bè phái, cục bộ địa phương... Mỗi cán bộ, đảng viên cần coi đây là trách nhiệm của mình trước vận mệnh của Đảng, trước nhân dân, cần nghiêm túc tự đổi mới, điều chỉnh nhận thức và hành động sao cho phù hợp hơn với yêu cầu, nhiệm vụ của Đảng trong điều kiện mới. Nếu đổi mới là từ bỏ những gì là lệch lạc, lỗi thời hay sai trái để đi đến những cái mới, đúng đắn hơn, tiến bộ hơn, thì chỉnh đốn Đảng là sắp xếp lại những cái vốn có trước kia đến nay vẫn đúng nhưng đã bị làm sai lệch để mọi công việc đi vào nền nếp, luôn phát huy tốt tác dụng. Từng tổ chức đảng và mỗi cán bộ, đảng viên phải ra sức làm tốt điều ấy.
Hiện nay, việc nâng tầm của Đảng cần tiếp tục kiên trì quan điểm đổi mới; trong đó, đổi mới tư duy vẫn là vấn đề trước tiên, mang ý nghĩa quyết định. Đảng cần tiếp tục đổi mới tư duy về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; trọng tâm là đổi mới tư duy kinh tế. Đây là vấn đề thời sự nóng bỏng nhất, có ý nghĩa quyết định đưa nước ta thoát ra khỏi “cái bẫy” thu nhập trung bình, giữ vững sự ổn định đất nước, đồng thời là cơ sở để tìm con đường đưa nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế. Để thực hiện được điều đó, Đảng cần đẩy mạnh hơn nữa công tác nghiên cứu tổng kết thực tiễn, khái quát lý luận từ thực tiễn công cuộc đổi mới, cung cấp luận cứ khoa học cho đổi mới tư duy, đề xuất những chủ trương, chính sách có tính khả thi cao, mang lại hiệu quả thiết thực.
Đồng thời, cần tiếp tục đổi mới về tổ chức để bộ máy của Đảng từ Trung ương đến cơ sở tránh được sự chồng chéo, trùng lắp về chức năng, nhiệm vụ, tinh giảm được biên chế, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác. Hơn lúc nào hết, Đảng cần xây dựng một đội ngũ cán bộ, đảng viên có đủ phẩm chất, năng lực, có tư duy đổi mới, có trình độ, khả năng thực hiện đổi mới, có bản lĩnh chính trị kiên định vững vàng; không suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Điều này, chỉ có thể đạt được khi Đảng kiên quyết chống mọi biểu hiện suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; ngăn chặn, đẩy lùi “bệnh” quan liêu, tham nhũng, lãng phí; mất dân chủ, thành kiến, bè phái, cục bộ địa phương... Mỗi cán bộ, đảng viên cần coi đây là trách nhiệm của mình trước vận mệnh của Đảng, trước nhân dân, cần nghiêm túc tự đổi mới, tự chỉnh đốn về cả nhận thức và hành động sao cho phù hợp hơn với yêu cầu, nhiệm vụ của Đảng trong điều kiện mới.
Đảng ta tự đổi mới, tự chỉnh đốn không chỉ tiến hành một lần trong một thời gian ngắn là xong, là đủ, mà là việc thường xuyên và lâu dài. Điều đó là do công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc càng được đẩy mạnh, càng đi vào chiều sâu thì nhiều vấn đề mới lại nảy sinh, luôn đặt ra đòi hỏi Đảng phải nhận thức và có lời giải đáp nhanh và chính xác để thực hiện tốt nhất vai trò lãnh đạo của mình. Đồng thời, Đảng phải vượt lên phía trước để không bị rơi vào tình trạng bất cập, lạc hậu với thời cuộc. Mặt khác, Đảng phải kịp thời ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên. Trong bất luận điều kiện, hoàn cảnh nào, thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ và sử dụng tốt “vũ khí”đấu tranh tự phê bình và phê bình để nhìn nhận rõ thành tựu, khuyết điểm, hạn chế, chỉ ra sai lầm trong công tác lãnh đạo và đề ra chủ trương, biện pháp khả thi để khắc phục những hạn chế, khuyết điểm, sai lầm trong nhận thức và trong hoạt động thực tiễn có ý nghĩa rất quan trọng.



[1] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.69