Thứ Năm, 15 tháng 8, 2013

Tặng bạn cùng lớp NCS

Chín mươi ngày từ lúc em sinh con
Là từng ấy đêm em vơi giấc ngủ
Tã lót dỗ dành đứng lên ngồi xuống
đêm thật là dài lời ru cũng chơi vơi.

Em vẫn thường than khổ lắm các anh ơi
Nó cứ hành em như em là đứa ở
Chẳng biết bố nó ngày xưa có thế
Nếu thật thế này thì em chẳng dám yêu.

Con chưa ngoan em đã phải liêu xiêu
Ngày 2 buổi đến trường kịp theo giờ học
Sách vở, bạn thày cả những điều mới lạ
Cố gắng lắm rồi mà vẫn thấy chơi vơi.

Mỗi buổi nhìn em lòng chợt nghĩ xa xôi
Gái một con mà chẳng "mòn con mắt"
Em vấn vậy như cuộc đời vẫn thế
Hạnh phúc nào mà chẳng đẫm gian lao.
                                             Hà nội 2010

Chủ Nhật, 11 tháng 8, 2013

Phòng bệnh hơn chữa bệnh

                                     
Dân ta xưa nay vẫn có câu: “phòng bệnh hơn chữa bệnh”. Câu nói nghe  dân dã, đơn giản, dễ hiểu nhưng lại hàm ý rất sâu xa. Đặc biệt, trong tình hình hiện nay khi mà nhịp sống của xã hội hiện đại đang diễn ra với tốc độ chóng mặt và sự thay đổi bất thường của điều kiện tự nhiên càng thấy câu nói trên có ý nghĩa sâu sắc cả về mặt phương pháp luận cũng như hoạt động tổ chức, chỉ đạo thực tiễn.
Trước tiên, “bệnh” được nhắc đến ở đây không phải theo nghĩa y học mà là những căn “bệnh” dưới góc nhìn của công tác tổ chức, quản lý xã hội. Để phòng những căn “bệnh” này có hiệu quả, việc cần làm trước tiên là dự đoán những “bệnh” có khả năng xảy ra mà xã hội phải đối mặt. Thực tiễn có rất nhiều “bệnh” song chung quy lại có thể phân ra hai loại “bệnh” cơ bản: “bệnh” có nguồn gốc từ tự nhiên, do tự nhiên gây ra (ví dụ như, động đất, sóng thần, núi lửa, bão, lụt, hạn hán, nắng nóng, băng tuyết…) và “bệnh” có nguồn gốc từ xã hội, do con người gây ra (ví dụ như, thiếu trách nhiệm, cố ý làm trái, tham nhũng, lãng phí, độc đoán, chuyên quyền…). Về mặt lý thuyết, nếu không được phòng bị chu đáo và chữa trị kịp thời thì loại “bệnh” nào cũng để lại hậu quả nghiêm trọng. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy loại “bệnh” có nguồn gốc xã hội ở nước ta từ xưa đến nay (đặc biệt hiện nay) là loại “bệnh” nan giải và khó phòng chống nhất. Hệ quả của những căn “bệnh” này gây ra không chỉ thiệt hại về người và của cải vật chất mà nguy hiểm hơn còn là từng bước làm mất dần niềm tin của nhân dân đối với đội ngũ cán bộ Đảng viên của Đảng, đe dọa trực tiếp đến sự tồn vong của chế độ chính trị.
Nhận thức rõ tính chất nguy hiểm của loại “bệnh” này, thời gian qua Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương và giải pháp nhằm phòng “bệnh” có hiệu quả. Đã có khá nhiều văn bản Luật và dưới Luật được bổ xung và ban hành mới đối với nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, thể hiện khá sinh động công tác phòng, chống các căn “bệnh” nói chung và “bệnh xã hội” nói riêng (Luật Phòng chống tham nhũng; Luật Phòng cháy, Chữa cháy; Luật Bình đẳng giới; Luật Phòng chống bạo lực gia đình; luật Giao thông…). Mặc dù vậy, trong khoảng 3 năm trở lại đây, trên phạm vi cả nước vẫn còn khá nhiều những vụ việc nổi cộm gây bức xúc trong dư luận. Ví dụ, sự kiện 2 tập đoàn kinh tế lớn (VINASHIN, VINALINE); Vụ đắm tàu du lịch tại Quảng Ninh (2/2011); Vụ tàu hỏa đâm vào ô tô tại cầu Gềnh, tỉnh Đồng Nai (3/2011); vụ sập mở đá Lèn Cờ, Nghệ An (2011); vụ sai phạm trong chính sách với người có công ở Huyện Phù Ninh, Quảng Nam (2013)… và gần đây nhất là vụ đắm tàu tại vùng biển thuộc huyện Cần Giờ thành phố Hồ Chí Minh làm 9 người thiệt mạng. Chỉ tính riêng các vụ việc vừa nêu đã có tới hàng chục cán bộ, Đảng viên của Đảng bị khởi tố với các tội danh: Vi phạm các quy định về an toàn giao thông gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng; Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng; Cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng…Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến các vụ việc nói trên, song một trong những nguyên nhân cơ bản vẫn là do công tác phòng “bệnh” chưa thực sự có hiệu quả. Dư luận đã tự đặt câu hỏi nếu có cơ chế quản lý hợp lý, chặt chẽ hơn, nếu công tác quản lý, giáo dục cán bộ của các cấp thường xuyên hơn và đặc biệt là công tác kiểm tra, phối hợp của các cấp, các ngành được nhịp nhàng hơn thì đâu đến nỗi xảy ra các vụ việc nói trên? Thế mới biết công tác “phòng bệnh hơn chữa bệnh” có ý nghĩa thế nào!
Đất nước ta đang tiếp tục tiến hành công cuộc Đổi mới. Nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa đang từng bước được định hình và phát triển. Trong bối cảnh kinh tế –xã hội trong nước và thế giới luôn có những biến động nhanh, phức tạp và khó lường, hơn lúc nào hết công tác phòng “bệnh” càng trở nên quan trọng và cần thiết. Để phòng “bệnh” có hiệu quả, thiết nghĩ nên làm tốt một số việc sau đây:
Thứ nhất, cần phải dự đoán có cơ sở khoa học những “bệnh” có thể xảy ra để từ đó có giải pháp hữu hiệu phòng “bệnh”. Đây là việc làm hết sức quan trọng, đặc biệt đối với những người đứng đầu các cơ quan, tổ chức, đơn vị.
Thứ hai, phòng “bệnh” phải gắn liền với phương án chữa “bệnh”. Thực tiễn cho thấy chỉ khi nào công tác phòng “bệnh” chu đáo thì công tác chữa “bệnh” mới chuyên nghiệp và có hiệu quả. Thực tiễn công tác khắc phục các vụ việc nổi cộm ở nước ta thời gian qua đã minh chứng cho chúng ta điều đó.
Thứ ba, phòng “bệnh” đối với bất kỳ loại “bệnh” nào cũng đòi hỏi phải có sự phối, kết hợp giữa các cấp, các ngành, các cơ quan đơn vị. Đây cũng là khâu yếu nhất trong công tác phòng “bệnh” ở  nước ta hiện nay.
Thứ tư, thường xuyên tiến hành công tác kiểm tra, đôn đốc và giáo dục cán bộ, đảng viên nâng cao tinh thần trách nhiệm, ý thức tự giác trong công tác phòng và chữa “bệnh”. Kịp thời có hình thức khen thưởng và xử phạt đối với những cá nhân và tổ chức làm tốt và chưa làm tốt công tác phòng, chữa “bệnh” (xưa nay chúng ta chú trọng nhiều hơn đến khen thưởng và xử phạt đối với công tác chữa “bệnh” mà chưa chú trọng đúng mức tới khen thưởng và xử phạt đối với công tác phòng “bệnh”).

                                                                                Trần Minh Chiến

Thứ Bảy, 10 tháng 8, 2013

Cần cảnh giác

CẦN CẢNH GIÁC VỚI QUAN ĐIỂM CHO RẰNG: “ “TỰ DIỄN BIẾN”, “TỰ CHUYỂN HOÁ” VỐN DĨ LÀ QUY LUẬT, HIỆN HỮU TRONG QUÁ TRÌNH TIẾN HOÁ CỦA NHÂN LOẠI VÀ THÚC ĐẨY XÃ HỘI LOÀI NGƯỜI VĂN MINH”.
                                                                                    Trần Minh Chiến
Những ngày qua toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đang phát huy quyền làm chủ, tập trung trí tuệ và tâm huyết cao độ để cùng nhau tham gia ý kiến đóng góp vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 nhằm mục đích xây dựng Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực sự là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Hơn lúc nào hết, các thế lực thù địch trong và ngoài nước đã tranh thủ lợi dụng sự kiện quan trọng này để tiếp tục “Chiến lược Diễn biến hoà bình”, điên cuồng chống phá cách mạng nước ta. Có thể nói chưa khi nào các bài viết của các thế lực thù địch lại xuất hiện nhiều trên các diễn đàn điện tử, các trang Web và Blog cá nhân như hiện nay. Mục tiêu, nội dung công kích, chống phá của chúng khá toàn diện song tập trung chính vẫn là vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và đội ngũ cán bộ Đảng viên của Đảng. Trong một bài viết có tiêu đề “Tự thú” của tác giả Đồng Phụng Việt được đăng trên tờ “Tin chủ nhật” (Posted by basamnew on 13-1-2013) có đoạn viết: ““Tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” vốn dĩ là quy luật, hiện hữu trong quá trình tiến hoá của nhân loại và thúc đẩy xã hội loài người văn minh, tiến bộ hơn trước. Đã là quy luật thì không thể chống nhưng chẳng hiểu tại sao, lãnh đạo Đảng (Cộng sản Việt Nam) vẫn nhất định phải chống cho bằng được, kể cả sau khi đã học và bắt nhiều người cùng học “duy vật biện chứng”, “duy vật lịch sử”. Thoạt nghe hoặc vừa đọc chưa kịp có thời gian suy nghĩ thì tưởng chừng như đây là quan điểm và thắc mắc có lý của tác giả bài viết. Nhưng dừng lại suy nghĩ một chút với tư duy khách quan, khoa học thì bất kỳ ai cũng sẽ nhận ra ngay “tâm đen” của người đưa ra quan điểm này. Đây thực chất là một kiểu “đánh tráo khái niệm”, là “lập lờ đánh lận con đen” (nói như thành ngữ tiếng Việt), là làm cho đúng –sai; chính –tà;  thật- giả lẫn lộn khó phân biệt để lừa gạt người khác nhằm phục vụ cho ý đồ đen tối của mình. Đó là, tiếp tục bằng mọi cách thủ tiêu đấu tranh trong nội bộ Đảng Cộng sản việt Nam để từ đó làm cho cán bộ, Đảng viên của Đảng dấn sâu vào con đường cơ hội, thực dụng, sa ngã trước sự cám dỗ của lợi ích vật chất, đồng tiền; từng bước suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống; phai nhạt mục tiêu, lý tưởng cách mạng của Đảng, tiến tới xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Có thể nhận thấy sự trơ tráo, bất hợp lý, phi khoa học của quan điểm nêu trên được thể hiện ở những điểm sau:
1. Trước hết, tác giả bài viết đã cố tình xem xét hiện tượng “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong sự cô lập, tách rời hay còn gọi là sự siêu hình, máy móc mà lờ đi mối quan hệ biện chứng giữa “Diễn biến hoà bình” và “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”. Chính điều này thoạt tiên làm người ta dễ lầm tưởng “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” mà bài viết đề cập đến là sự vận động hoàn toàn tự thân, tất yếu trong bản thân của sự vật, hiện tượng mà không bị ràng buộc, chi phối của bất kỳ yếu tố nào khác.
Nên nhớ rằng “Diễn biến hoà bình” và ‘tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” có mối quan hệ khăng khít, không thể tách rời. Chỉ có thể nhận thức được sâu sắc “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” khi và chỉ khi đặt nó trong mối quan hệ mật thiết với “Diễn biến hoà bình” và “sự tự suy thoái”. “Diễn biến hoà bình” là một chiến lược của các thế lực thù địch đối với Đảng và cách mạng Việt Nam. Mục tiêu của chiến lược này là làm cho đội ngũ cán bộ, Đảng viên của Đảng từng bước suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, từng bước dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”, ngày càng xa rời mục tiêu, lý tưởng cách mạng, ngày càng quan liêu, xa dân, làm suy giảm dần lòng tin của nhân dân đối với Đảng. Như vậy, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” vừa là thủ đoạn, vừa là mục tiêu của chiến lược “Diễn biến hoà bình” mà các thế lực thù địch đang tiến hành đối với cách mạng Việt Nam. Việc xem xét tách rời giữa “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” với “Diễn biến hoà bình” là hoàn toàn không khách quan, khoa học, là cố tình “đánh tráo khái niệm”, là “lập lờ đánh lận con đen” nhằm che đậy, nguy biện cho những ý đồ đen tối.
2.Tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” không thể là quy luật trong quá trình tiến hoá của nhân loại và lại càng không thể là quy luật trong quá trình tồn tại và phát triển của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nói tới quy luật là nói tới những mối liên hệ bản chất, tất nhiên, phổ biến và lặp lại giữa các mặt, các yếu tố, các thuộc tính bên trong mỗi một sự vật, hay giữa các sự vật hiện tượng với nhau. “Tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” không phải là vấn đề bản chất, phổ biến của Đảng cộng sản Việt Nam. “Tự diễn biến”, “tự chuyển hoá’ thực chất là một quá trình suy thoái từ bên trong của một bộ phận cán bộ, Đảng viên của Đảng, nó chỉ xuất hiện trong những năm gần đây khi Việt Nam ngày càng mở cửa, hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới. Một mặt, do tác động khách quan như: mặt trái của kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, âm mưu, thủ đoạn “Diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch. Mặt khác, là từ nguyên nhân chủ quan do một bộ phận cán bộ, Đảng viên thoái hoá, biến chất về tư tưởng chính trị. Tuy nhiên, cần phải lưu ý và khẳng định rằng: “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” mới chỉ xuất hiện ở một bộ phận cán bộ, Đảng viên của Đảng mà chưa phải là toàn bộ Đảng viên hay mang tính phổ biến, lặp lại. Điều này cũng đã được Nghị quyết Trung ương 4 Đảng Cộng sản Việt Nam nghiêm túc, thẳng thắn, tự kiểm điểm, đánh giá và nêu ra: “Trong tình hình hiện nay, một bộ phận không nhỏ cán bộ, Đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa, địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện vô nguyên tắc"[1]. Nhìn từ thực tế, lấy thực tế để kiểm nghiệm chân lý, chúng ta hoàn toàn có thể khẳng định: phần lớn cán bộ, Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay vẫn giữ gìn được phẩm chất, đạo đức của người Đảng viên Cộng sản, luôn trung thành với mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của Đảng, luôn là người chiến sĩ tiên phong trên mọi lĩnh vực, hết lòng vì dân, vì nước. Hãy thử đặt ra câu hỏi và hãy tự trả lời: Nếu “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” là tất yếu, quy luật, là bản chất và phổ biến của Đảng Cộng sản Việt Nam thì làm sao hơn 80 năm qua từ khi có Đảng lãnh đạo (1930), đất nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam, nhân dân Việt Nam từ thân phận lầm than, nô lệ, đã vươn lên trở thành người làm chủ; làm sao có thể chống lại được những kẻ thù hung hãn vào bậc nhất trong thế kỷ XX để tự bảo vệ quyền sống, quyền độc lập, tự do và mưu cầu hạnh phúc của mình. Và đặc biệt, từ khi Đảng khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới toàn diện đất nước (1986) đến nay, Việt Nam đã thu được những thành tựu quan trọng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, đất nước đã thoát nghèo, vượt qua khủng hoảng; đời sống vất chất và tinh thần của nhân dân ngày càng được cải thiện rõ rệt; ý Đảng, lòng dân luôn hoà làm một; chính trị -xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường; độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; uy tín của Việt Nam ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế.
Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào trong quá trình phát triển, hoàn thiện  cũng không bao giờ đi theo một đường thẳng, mà diễn ra quanh co, phức tạp (không tránh khỏi mắc sai lầm, khuyết điểm). Xã hội, các tổ chức xã hội và các lĩnh vực của đời sống xã hội cũng như cuộc sống của con người đều diễn ra theo chiều hướng đó. Song vấn đề cần bàn ở đây là: “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” chỉ là một trong những biểu hiện cụ thể về sự “sai lầm’, “khuyết điểm”, “khúc quanh” trong quá trình vận động, phát triển của một xã hội cụ thể và những con người cụ thể trong từng giai đoạn lịch sử nhất định, chứ tuyệt nhiên “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” không phải là vấn đề bản chất, là tất yếu, là quy luật hiện hữu và phổ biến trong quá trình tiến hoá của nhân loại. Tác giả Đồng Phụng Việt đã mắc phải một sai lầm khá sơ đẳng về mặt phương pháp luận đó là: lấy cái đơn nhất, cái nhỏ lẻ, cái dấu hiệu không bản chất, không có tính phổ quát trong hệ thống “cái riêng” phong phú, đa dạng của sự vật, hiện tượng để khái quát rút ra cái bản chất, cái tất yếu, “cái chung” của sự vật, hiện tượng. Và từ đó suy luận, gán cho nó là vấn đề có tính quy luật, phổ biến trong quá trình tiến hoá của nhân loại. Chính “sự mập mờ” và lối “diễn ngôn không tường minh” này rất dễ làm cho người đọc, người nghe lầm tưởng, khó phân biệt đúng –sai…
3. Tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” không thể và không bao giờ là nhân tố có vai trò “thúc đẩy xã hội loài người văn minh, tiến bộ hơn trước”
Theo quan điểm duy vật biện chứng Mác xít (quan điểm khoa học và cách mạng nhất), mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới đều vận động và phát triển tuân theo những quy luật khách quan, vốn có của nó, đó là sự chuyển hoá từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất, sự đấu tranh thường xuyên của các mặt đối lập làm cho mâu thuẫn được giải quyết, từ đó dẫn đến sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời thay thế. Sự thay thế diễn ra liên tục tạo nên sự vận động và phát triển không ngừng của sự vật. Sự vật mới ra đời là kết quả của sự phủ định sự vật cũ và bao giờ cũng tiến bộ hơn sự vật cũ. Toàn bộ quá trình vận động làm cho cái mới ra đời thay thế cho cái cũ đó chính là quá trình phủ định biện chứng. Xã hội loài người là một dạng vật chất đặc biệt, mặc dù quy luật xã hội là những quy luật hoạt động của chính con người trong các quan hệ xã hội và không thể nảy sinh, tác động ngoài hoạt động có ý thức của con người. Tuy nhiên, quy luật xã hội vẫn mang tính khách quan. Trên tinh thần đó, có thể nhận thấy: “Tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong một bộ phận cán bộ, Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay mà biểu hiện của nó là sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, phẩm chất, đạo đức, lối sống…hoàn toàn không phải là quá trình phủ định biện chứng. Trong mối quan hệ với “Diễn biến hoà bình” thì “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trước hết là một trong những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch nhằm chống phá cách mạng Việt Nam. Nó không phải là một quá trình vận động tự thân, có nguyên nhân duy nhất nằm ngay trong bản thân tổ chức Đảng. Thực tế cho thấy trong những năm qua, các thế lực thù địch, phản động trong và ngoài nước đã điên cuồng chống phá cách mạng Việt Nam bằng chiến lược “Diễn biến hoà bình” với nhiều âm mưu và thủ đoạn tinh vi, thâm độc. Chúng thường xuyên tuyên truyền xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam nhằm kích động, gây mất đoàn kết trong nội bộ Đảng, chia rẽ mối quan hệ giữa Đảng với nhân nhân để làm cho Đảng từng bước suy yếu. Chúng dùng các thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt tấn công vào đội ngũ cán bộ, Đảng viên làm cho đội ngũ này từng bước suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, phai nhạt lý tưởng cách mạng, xa rời mục tiêu xã hội chủ nghĩa. Quá trình diễn ra tình trạng suy thoái đó cũng chính là quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong đội ngũ cán bộ, Đảng viên. Hệ quả cuối cùng là Đảng suy yếu dần và tự đánh mất vai trò lãnh đạo đối với đất nước và xã hội.
Rõ ràng, quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” không làm xuất hiện cái mới, cái tiến bộ, không làm cho xã hội ngày càng phát triển, văn minh. Mọi người đều biết Đảng Cộng sản Việt Nam là một Đảng duy nhất cầm quyền, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Vai trò lãnh đạo của Đảng đã được nhân dân thừa nhận trong thực tế và được quy định tại Điều 4 của Hiến pháp Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ngay khi mới ra đời và trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn khẳng định: chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng của Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam; đi lên chủ nghĩa xã hội là yêu cầu khách quan, là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam. Đó là một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người. Đó là một xã hội mà sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. Một xã hội hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, chứ không phải cạnh tranh thắng - thua vì lợi ích vị kỷ của cá nhân và các phe nhóm. Một xã hội với hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân, chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có… Một xã hội như vậy không chỉ là niềm mơ ước, là khát vọng cháy bỏng của nhân dân Việt Nam mà còn là niềm mơ ước và khát vọng của nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới. Đi lên Chủ nghĩa xã hội là sự vận động tất yếu, khách quan, là quy luật phát triển không chỉ của Việt nam mà còn là của cả xã hội loài người. Mọi âm mưu, thủ đoạn chống lại cách mạng Việt Nam, đòi xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội là kéo lùi lịch sử, là kìm hãm sự phát triển và chống lại quy luật vận động tất yếu, khách quan của lịch sử. Vậy “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” đâu có thúc đẩy xã hội loài người văn minh, tiến bộ hơn trước?!
4. Vì sao Đảng Cộng sản Việt Nam phải nhất định “chống cho bằng được” nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”?
Cũng giống như một cơ thể con người, muốn khoẻ mạnh nhất thiết phải được rèn luyện thường xuyên. Đảng Cộng sản Việt Nam muốn trong sạch, vững mạnh xứng đáng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam, đòi hỏi Đảng phải thường xuyên tự rèn luyện, tự xây dựng và chỉnh đốn mình, đúng như lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh- Người sáng lập và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam sinh thời đã từng căn dặn: “Mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi người phải tự kiểm điểm, tự phê bình, tự sửa chữa như mỗi ngày phải rửa mặt. Được như thế thì trong Đảng không có bệnh, mà Đảng sẽ khỏe mạnh vô cùng”. Thực chất của phê bình và tự phê bình là nhằm chống lại những nguy cơ làm suy yếu Đảng. Trong tình hình hiện nay, trước sự chống phá điên cuồng của các thế lực thù địch bằng chiến lược “Diễn biến hoà bình” Đảng phải đồng thời đối mặt với hai nguy cơ: Nguy cơ từ bên trong nội bộ là sự suy thoái của đội ngũ cán bộ, Đảng viên và nguy cơ từ bên ngoài là sự chống phá của của các thế lực thù địch. Hai nguy cơ này tuy xuất phát từ hai hướng khác nhau, nhưng nếu không cảnh giác và chủ động đấu tranh, ngăn chặn kịp thời thì sẽ dẫn đến một hậu quả chung, đó là làm cho đội ngũ cán bộ, Đảng viên “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”; làm cho Đảng từng bước suy yếu, mất lòng tin của nhân dân và cuối cùng là tự đánh mất vai trò lãnh đạo của mình. Cả hai nguy cơ như vừa nêu đều có thể dẫn đến sự suy vong của Đảng. Tuy nhiên, trong hai nguy cơ đó, thì nguy cơ suy thoái, biến chất của đội ngũ cán bộ, Đảng viên là cực kỳ nguy hiểm, quyết định sự tồn vong của Đảng. Bởi vậy, không phải ngẫu nhiên, vô cớ mà Đảng Cộng sản Việt Nam lại phải xác định phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” là một trong 3 vấn đề trọng tâm, xuyên suốt và cấp bách nhất hiện nay.
Kết thúc bài viết này, xin có 2 điều cảm nhận: Thứ nhất, nếu tác giả Đồng Phụng Việt thật sự quan niệm về “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” (như đã nêu), thì đây thật sự là một sự ấu trĩ về khoa học, thấp kém về nhận thức và không hiểu gì về chủ nghĩa Mác. Thứ hai, nếu đây là sự cố tình làm sai lệch bản chất của sự vật và phép biện chứng Mác xít, thì đây thật sự là hành động lươn lẹo, đánh tráo khái niệm một cách thô thiển, “lập lờ đánh lận con đen” nhằm ngụy biện cho những ý đồ đen tối. Không cần biết Đồng Phụng Việt là ai, hình dáng, con người, trình độ học vấn thế nào? làm gì? ở đâu? Nhưng chắc chắn đây là người Việt Nam, máu đỏ, da vàng, là con dân đất Việt nhưng có một cái tâm không sáng, một cái tầm thấp kém, đã cố tình phủ nhận và xuyên tạc sự thật, cố tình cản trở bước đi của chính dân tộc mình, nhân dân mình trên con đường hướng tới một xã hội: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”[2].
.







[1] Đảng Cộng sản Việt Nam. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa XI): Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Nxb. Chính trị quốc gia-Sự thật. Hà Nội. 2011. Tr. 24.

Vô đề

Mấy hôm trời nắng nóng
Chẳng ngọn gió mồ côi
Gian nhà giống chiếc nồi
Không rang mà nóng bỏng

Vợ là người khổ nhất
 vẫn tất bật sớm hôm
Nồi nước sôi dao thớt
Gánh hàng rong kiếm cơm

Chống nhàn hơn nhưng béo
Dị ứng nhiệt độ cao
Suốt ngày tắm ào ào
Cứ vào ra đến tội

Nào đâu chỉ tắm gội
Còn giặt giũ nấu cơm
Trông con và tắm gội
Tấm lưng trần nắng sơn

Thương nhất hai con nhỏ
 Nắng nóng chẳng hề quen
Đứa ngày ăn không được
Đứa đêm ngủ chẳng yên

Bố mẹ dẫu vất vả
Chỉ mong con bình yên
Từ đáy lòng cầu ước
Trời mau mưa, mau mưa...
                                                           
                                                                             Mùa hè 2013