Thứ Tư, 3 tháng 12, 2014

Phòng chống “Diễn biến hòa bình” trong tình hình hiện nay
Có thể nói thủ đoạn “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch đã diễn ra phổ biến trên các địa bàn dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa… nhất là các tỉnh Tây nguyên, Tây Nam bộ, Tây Bắc… với những thủ đoạn tinh vi và hành động điên cuồng. Lợi dụng sự mê tín, dị đoan của một số người bọn phản động bên ngoài cùng với bọn xấu tại địa phương đã ngầm cấu kết chặt chẽ với nhau để lừa bịp, mê hoặc quần chúng, hình thành các tổ chức phản động, từng bước phát triển lực lượng, tuyên truyền ảnh hưởng, kích động, chia rẽ dòng họ, dòng tộc, khống chế và vô hiệu hóa cấp ủy, chính quyền địa phương để khi có thời cơ, điều kiện sẽ thực hiện ý đồ chính trị của chúng.
Một số thủ đoạn hoạt động chính của chúng là: tung tin thất thiệt, tuyên truyền xuyên tạc; xây dựng nhân cốt, tạo dựng ngọn cờ; tuyển chọn người vào tổ chức phản động; chuẩn bị cơ sở vật chất cần thiết bằng các thủ đoạn lừa gạt, chiếm đoạt, kết hợp mê hoặc với cưỡng chế, kết hợp giữa thuyết phục với tung tin để răn đe; tuyên truyền, kích động, lôi kéo từng gia đình, dòng họ; khi bị lộ sẵn sàng chống lại chính quyền. Những năm qua, ở một số nơi như Tây Nguyên, Tây bắc, Tây Nam… đã diễn ra các hoạt động lợi dụng tự do, tín ngưỡng tôn giáo, tranh chấp đất đai, lợi dụng những yếu kém, sơ hở của chính quyền địa phương, xuyên tạc sự thật, kích động, chia rẽ nhân dân, chống đối chính quyền, làm mất ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, đe dọa trực tiếp đến cuộc sống hòa bình, làm ăn sinh sống của đồng bào.
Đấu tranh phòng, chống âm mưu “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn chính trị là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng của các lực lượng vũ trang đứng chân trên địa bàn các tỉnh biên giới trong đó quân đội là lực lượng nòng cốt. Thiết nghĩ cần thực hiện tốt một số giải pháp sau đây:
Trước hết, cần xây dựng và thống nhất giữa các lực lượng đứng chân trên địa bàn về phương án xử lý các tình huống khi có gây rối, bạo loạn. Đồng thời thống nhất việc quản lý chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia, chống xâm nhập biên giới trái phép. Tổ chức các hội nghị hiệp đồng giữa quân đội với công an, bộ đội biên phòng, dân quân tự vệ đứng chân trên địa bàn, củng cố cơ sở chính trị ở địa phương, tạo sự đoàn kết, thống nhất, hỗ trợ lẫn nhau, phát huy sức mạnh tổng hợp cùng thực hiện thắng lợi nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, an ninh.
Hai là, các lực lượng đứng chân trên địa bàn cùng phối hợp nắm vững tình hình, thông báo cho nhau, cùng nhau nghiên cứu phương án xử lý các tình huống nảy sinh. Thực hiện cơ chế Đảng lãnh đạo, chính quyền điều hành, cơ quan chức năng làm tham mưu, trong đó quân đội, công an làm nòng cốt, chỉ huy, thống nhất các lực lượng thuộc quyền. Duy trì chặt chẽ các chế độ giao ban, định kỳ hàng tuần, tháng và đột xuất, phân tích, đánh giá tình hình có liên quan đến an ninh, quốc phòng.
Ba là, tuyên truyền vận động đồng bào thực hiện tốt đường lối quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước, kiên trì thuyết phục, tuyệt đối không gò ép, mệnh lệnh.
Bốn là, các đơn vị quân đội đóng quân trên địa bàn cần tích cực tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương chỉ đạo và có kế hoạch củng cố phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, nhất là những địa bàn phức tạp.

Năm là, nâng cao mọi mặt đời sống của nhân dân, nhất là đống bào tôn giáo, dân tộc thiểu số. Quán triệt và thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng; thực hiện có hiệu quả các chương trình phát triển kinh tế- xã hội gắn với quốc phòng- an ninh của Đảng, chính phủ như: Chương trình 135, Chương trình xóa đói, giảm nghèo, Chương trình quân, dân y kết hợp…

Thứ Hai, 20 tháng 10, 2014

Sư đoàn 320:    Ui! E biết không ngồi trong phòng làm việc thỉnh thoảng nhìn qua ô cửa sổ thấy nắng vàng xuyên qua những vòm lá, lấp lánh như dát vàng óng ánh. Trời Tây Nguyên mùa này đẹp quá, anh lại thấy nhớ em và con cồn cào, da diết!

Thứ Năm, 2 tháng 10, 2014

         Mình vào nhận công tác ở Tây Nguyên đã hơn 1 tháng. Thời tiết Tây Nguyên mùa này mưa - nắng thất thường cũng làm cho sức khỏe của mình nhiều lúc không ổn định. Công việc mới, môi trường mới đòi hỏi mình phải có nhiều cố gắng để nhanh chóng hòa nhập. Trải nghiệm đầu tiên là cuộc diễn tập chiến dịch tuần qua. Vất vả, mệt nhọc nhưng thật thú vị và học hỏi được nhiều điều bổ ích. Thực tiễn thật phong phú và sinh động biết bao! chỉ có như thế này mới hiểu được giá trị của phương châm: "học đi đôi với hành; lý luận phải gắn liền với thực tế; Nhà trường phải gắn liền với đơn vị".

Thứ Tư, 4 tháng 6, 2014

GIỮ VỮNG BẢN LĨNH CHÍNH TRỊ, TƯ TƯỞNG KHI KHAI THÁC THÔNG TIN MẠNG –VẤN ĐỀ CẦN CHÚ Ý ĐỐI VỚI GIẢNG VIÊN Ở TRƯỜNG SĨ QUAN CHÍNH TRỊ HIỆN NAY

Hiện nay, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch vẫn đang tiếp tục thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình” với nhiều âm mưu, thủ đoạn mới tinh vi và xảo quyệt hơn nhằm chống phá cách mạng Việt Nam. Trong các phương thức để thực hiện chiến lược đó, kẻ thù đặc biệt chú ý tới chiến dịch truyền thông thông qua mạng internet. Dưới những chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền”, với giọng điệu lừa bịp, mỵ dân của chủ nghĩa chống cộng, các thế lực thù địch muốn thông qua các trang mạng xã hội, các blog cá nhân để từng bước chia rẽ đoàn kết dân tộc, tập hợp lực lượng, tranh thủ quần chúng và nguy hiểm hơn là làm cho đội ngũ cán bộ, Đảng viên của Đảng từng bước suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, từng bước dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”, ngày càng xa rời mục tiêu, lý tưởng cách mạng. Đó là kịch bản và đồng thời cũng là tưởng định mà chúng ta không thể không cảnh giác và tích cực phòng ngừa. Vì vậy, giữ vững bản lĩnh chính trị, khai thác có hiệu quả thông tin mạng phục vụ cho công tác giảng dạy và nghiên cứu khoa học là yêu cầu có tính nguyên tắc đối với cán bộ, giảng viên Trường sĩ quan Chính trị (SQCT) nói chung và khoa Chủ nghĩa xã hội khoa học (CNXHKH) nói riêng.
Chúng ta đều phải thừa nhận: xã hội hiện đại và văn minh không thể thiếu vai trò của công nghệ chuyển tải thông tin, công nghệ không dây (mạng intrernet). Sự phát triển mạnh mẽ, tính hiệu quả, năng động của dịch vụ internet luôn song hành với sự nghiệp đổi mới của đất nước. Ở Trường SQCT, chúng ta không thể không thừa nhận mặt tích cực của internet đối với sự nghiệp giáo dục- đào tạo, nhưng cũng không thể lường tính hết được những ảnh hưởng tiêu cực của nó đối với chính quá trình này. Để hạn chế tác động tiêu cực từ môi trường mạng, đồng thời với nỗ lực phổ cập internet đến từng khoa giáo viên, Nhà trường cần phải thường xuyên có những giải pháp cần thiết để ngăn chặn tác hại của nó đến quá trình đào tạo, mà trước hết là lĩnh vực chính trị tư tưởng của đội ngũ giáo viên.
Từ sự thuận tiện và cởi mở của internet, cán bộ, giáo viên chúng ta được đọc những trang báo điện tử, blog cá nhân với những thông tin cập nhật về lịch sử, văn hóa, chính trị, xã hội, tôn giáo, dân tộc, khoa học kỹ thuật và công nghệ. Dung lượng thông tin này vô cùng phong phú, đa dạng. Từ đây, chúng ta có thể lựa chọn thông tin, tư liệu cho hoạt động nghiên cứu, giảng dạy, phục vụ đời sống, hoặc tham gia phản biện xã hội. Nhưng cũng không khó tìm thấy những trang mạng thiếu lành mạnh (như Anhbasam; Quan làm báo; Dân làm báo; Hậu quan làm báo…), chúng được ngụy tạo bởi những dữ liệu không có căn cứ, nhưng sử dụng ngôn từ thuyết phục, cấu tứ lập luận khá lôgic, thậm chí “đánh tráo khái niệm”, “lập lờ đánh lận con đen” (nói như thành ngữ tiếng Việt), rất dễ làm cho người đọc nhầm lẫn về tính trung thực, những ý đồ và những toan tính sâu xa đang ẩn dưới những con chữ, từng bài biết. Với những trang mạng này, nếu người đọc thiếu bản lĩnh, cảm tính, không phân tích dữ kiện một cách thấu tình đạt lý thì rất dễ dẫn đến thái độ đồng tình và nhận thức sai lệch. Thực tiễn cho thấy, sản phẩm dùng trong hoạt động “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trên môi trường mạng được tính toán chặt chẽ, gia công khéo léo, thao tác kỹ càng tinh vi. Người ta không khó bắt gặp những trang mạng được ngụy tạo bởi những tác phẩm về lịch sử, văn hóa hấp dẫn. Khi tiếp xúc những bài này, nếu không tỉnh táo hoặc thiếu cảnh giác người đọc rất dễ rơi vào quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Khá phổ biến trên các trang mạng là những bài “phản biện xã hội”, những đóng góp dưới cái  vỏ “khách quan, nói thẳng, nói thật” góp ý cho đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước (những nội dung này chúng ta vốn chẳng lạ gì trong nội dung của chuyên đề “Chủ nghĩa chống cộng”- Bộ môn nguyên lý).
Tuy nhiên, những sản phẩm này lại thu hút sự quan tâm của khá nhiều tầng lớp trong xã hội, trong đó có cả những cán bộ, giáo viên làm công tác nghiên cứu, giảng dạy trong quân đội. Thực tế xin đưa ra một vài dẫn chứng: Trong một bài viết có tiêu đề “Tự thú” được đăng trên tờ “Tin chủ nhật” (Posted by basamnew on 13- 4 -2014) có đoạn viết: ““Tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” vốn dĩ là quy luật, hiện hữu trong quá trình tiến hoá của nhân loại và thúc đẩy xã hội loài người văn minh, tiến bộ hơn trước. Đã là quy luật thì không thể chống nhưng chẳng hiểu tại sao, lãnh đạo Đảng (Cộng sản Việt Nam) vẫn nhất định phải chống cho bằng được, kể cả sau khi đã học và bắt nhiều người cùng học “duy vật biện chứng”, “duy vật lịch sử””. Thoạt nghe hoặc vừa đọc chưa kịp có thời gian suy nghĩ thì tưởng chừng như đây là quan điểm và thắc mắc có lý của tác giả bài viết. Nhưng dừng lại suy nghĩ một chút với tư duy khách quan, khoa học thì bất kỳ ai cũng sẽ nhận ra ngay “tâm đen” của người đưa ra quan điểm này. Đây thực chất là một kiểu “đánh tráo khái niệm”, là “lập lờ đánh lận con đen” (nói như thành ngữ tiếng Việt), là làm cho đúng –sai; chính –tà;  thật- giả lẫn lộn khó phân biệt để lừa gạt người khác nhằm phục vụ cho ý đồ đen tối;  Hoặc gần đây nhất, nhiều trang mạng phụ họa cho Dự luật nhân quyền Việt Nam 2012 H.R.1410 và Nghị quyết H.Res kêu gọi chính phủ Việt Nam tôn trọng nhân quyền. “Dự luật” và “Nghị quyết” trên đã được Quốc hội Hoa Kỳ công bố ngày 11-9-2012 với những thông tin sai lệch, thiếu khách quan. Một số trang blog đăng tải những thông tin liên quan đến một số cán bộ cao cấp của Đảng, Nhà nước theo đó là những sự phân tích đánh giá “khách quan”. Bằng cách đó, tác giả của nó không thể không có dụng ý là tác động vào niềm tin, vào tư tưởng chính trị đối với người đọc. Nguy hại hơn, những thông tin đó nhanh chóng trở thành câu chuyện nơi bàn trà, quán nước. Đáng tiếc, trong đó có không ít những cán bộ, đảng viên, thậm chí cả những người trực tiếp là những “chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng” (trong đó có cả giảng viên)- những người đã  được giác ngộ khá chu đáo về chính trị, tư tưởng. Họ không thể ngờ rằng vô hình dung mình đã tiếp sức cho những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch được lan rộng…
 Điều đáng quan tâm là, bên cạnh những trang có nội dung tư tưởng tốt, vẫn còn nhiều những trang không lành mạnh, thậm chí độc hại, ảnh hưởng đến đời sống tinh thần. Đó là tính hai mặt của môi trường mạng mà chúng ta phải chấp nhận. Ngày nay, cái gọi là “Diễn biến hòa bình” là có thật, không phải là một lý thuyết chung chung; nó đã trở thành lực lượng vật chất cụ thể. Bằng thủ đoạn mới, qua hệ thống truyền thông, nó đang chuyển hóa, gieo rắc hiểm họa “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đến mọi tầng lớp trong xã hội đặc biệt là đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng.
Liệu chúng ta có thể vô hiệu hóa âm mưu, thủ đoạn nói trên của các thế lực thù địch? Câu trả lời phụ thuộc vào nhiều yếu tố, song quan trọng hơn cả vẫn là bản lĩnh chính trị, tư tưởng của mỗi con người khi tiếp nhận các luồng thông tin.
Đối với chúng ta – những cán bộ, giảng viên làm công tác nghiên cứu, giảng dạy trong quân đội, nhất là trên lĩnh vực xã hội nhân văn (đặc biệt môn CNXHKH), chức năng nghề nghiệp đưa chúng ta đến với môi trường mạng như một tất yếu. Nếu chúng ta không giữ vững bản lĩnh chính trị, tư tưởng thì chính những thông tin này sẽ biến thành công cụ “chuyển hóa” với chính chúng ta (những  đối tượng khai thác nó). Giả định, nếu chúng ta rơi vào trạng thái “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” thì chắc chắn sẽ tác động rất xấu đến công tác chính trị, tư tưởng trong quân đội nói chung. Bởi lẽ, ngoài việc tự mình chống lại quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, chúng ta còn phải là những “chiến sĩ” tiên phong trong hoạt động này thông qua việc trang bị cho học viên (những cán bộ chính trị; giáo viên KHXHNV tương lai của quân đội) những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác –LêNin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam. Do đó trong bất kỳ điều kiện, hoàn cảnh nào chúng ta cũng phải thường xuyên giữ vững bản lĩnh chính trị, khai thác hiệu quả thông tin trên mạng thì mới có thể phục vụ tốt nhất nhiệm vụ nghiên cứu, giảng dạy.
Do đặc điểm nghề nghiệp quy định, để thực hiện tốt đề tài nghiên cứu, hoặc có những giờ lên lớp thuyết phục, người giảng viên ngoài việc nghiên cứu, tham khảo những tài liệu chính thống, còn phải tích cực khai thác thông tin trên mạng. Và như đã đề cập ở trên, nếu không có bản lĩnh chính trị, tư tưởng vững vàng thì chính họ cũng có thể “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và trở thành công cụ nguy hiểm cho chiến lược này của các thế lực thù địch.

Thiết nghĩ, đối với chúng ta hiện nay trước hết phải luôn có tinh thần, bản lĩnh của “Người lính” trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng. Hiểu biết, thành thạo các thao tác sử dụng mạng và không gian thông tin về khoa học xã hội nhân văn; lựa chọn đối tượng mạng để tham khảo, tra cứu. Quá trình khai thác thông tin phải bình tĩnh phân tích một cách khoa học, đồng thời phải so sánh, đối chiếu giữa thông tin mạng và thông tin chính thống (đường lối, quan điểm của Đảng, Nhà nước…) và lựa chọn những nội dung cần thiết (sau khi đã tự mình phản biện) trước khi sử dụng. Phải hết sức cảnh giác trước những trang blog cá nhân và việc lợi dụng diễn đàn mở này để đưa ra những ý kiến cá nhân, mang tính chủ quan, áp đặt. Mặt khác, mỗi giảng viên
phải có thái độ khoa học rõ ràng, xác đáng, giúp cho học viên có nhận thức đúng đắn, nghiêm túc trước những luận điệu sai trái của các thế lực phản động đang tìm cách thực hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” thông qua hệ thống truyền thông. Khi tiếp xúc khai thác thông tin mạng nhất thiết phải làm chủ được lý trí, tình cảm trước những mặt tiêu cực (có thật), đồng thời phải bằng hành động nghề nghiệp (phân tích rõ đúng –sai trên cơ sở khoa học) góp phần ổn định chính trị tư tưởng cho các đối tượng giáo dục. Dù trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng kiên quyết không nối dài, không bổ sung thông tin khi chưa có sự kiểm định; kiên quyết không sử dụng loại tư liệu chỉ có ý nghĩa tham khảo để làm tư liệu chính thức. Sẽ dẫn đến tác hại khôn lường khi chính chúng ta lại rơi vào trạng thái “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, mất niềm tin…, lúc đó bài giảng sẽ không thể có “Lửa” và chúng ta rất dễ vi phạm các nguyên tắc của quá trình dạy học (đảm bảo tính đảng, tính khoa học, tính chính trị…).         

            Do vậy, khi tiếp xúc với môi trường mạng nhất thiết phải giữ vững bản lĩnh chính trị, tư tưởng và đây được xem như là một trong những phẩm chất, năng lực cần phải có của người cán bộ, giảng viên trong các Nhà trường quân đội nói chung và Trường SQCT hiện nay nói riêng.

Thứ Năm, 15 tháng 5, 2014

KHÔNG THỂ CHẤP NHẬN HÀNH ĐỘNG COI THƯỜNG ĐẠO LÝ, PHÁP LÝ
 Những ngày qua dư luận trong nước và quốc tế đang hết sức phẫn nộ về hành động ngang ngược bất chấp pháp lý, đạo lý của Trung quốc khi họ ngang nhiên hạ đặt giàn khoan nước sâu HD -981 ngay trong thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Xét trên khía cạnh pháp lý, đây là hành động vi phạm nghiêm trọng quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam đối với các vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, đi ngược lại luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước của Liên hợp quốc năm 1982 về Luật biển (mà chính Trung Quốc là một trong những thành viên tham gia ký kết) và Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) giữa Trung Quốc và ASEAN. Rõ ràng về mặt pháp lý, Việt Nam hoàn toàn có thể khởi kiện Trung Quốc về hành vi vi phạm luật pháp quốc tế. Xét trên khía cạnh đạo lý, Trung  Quốc với Việt Nam vốn vừa là “đồng chí”, vừa là “anh em”. Nhân dân Việt Nam vẫn còn nhớ như in những tuyên bố ấm lòng của lãnh đạo cấp cao 2 nước hơn chục năm qua được khái quát, cô đọng trong 16 chữ:
“Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và tinh thần 4 tốt “Láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”. Trên tinh thần đó về vấn đề biển Đông lãnh đạo cấp cao 2 nước tiếp tục khẳng định rõ ràng trong các chuyến thăm Trung quốc của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng (10/2011); Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng (9/2013) và chuyến thăm Việt Nam của Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường (10/1013):  “Lấy đại cục quan hệ hai nước làm trọng, xuất phát từ tầm cao chiến lược và toàn cục, dưới sự chỉ đạo của phương châm “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và tinh thần “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”, kiên trì thông qua hiệp thương hữu nghị, xử lý và giải quyết thỏa đáng vấn đề trên biển, làm cho Biển Đông trở thành vùng biển hòa bình, hữu nghị, hợp tác, đóng góp vào việc phát triển quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Trung Quốc, góp phần duy trì hòa bình và ổn định trong khu vực”; 2 bên nhất trí thực hiện có hiệu quả: “Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông" (DOC), tăng cường tin cậy, thúc đẩy hợp tác, cùng nhau duy trì hòa bình, ổn định ở Biển Đông, theo tinh thần và nguyên tắc của DOC, trên cơ sở đồng thuận, nỗ lực hướng tới thông qua "Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông" (COC).
           Thế mà giờ đây Trung Quốc đã quay ngoắt 180 độ, bỏ hết luân thường, đạo lý, ngang nhiên hạ đặt giàn khoan HD-981 trong thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Có thể nói, đây là hành động xâm lược chủ quyền, lãnh thổ của Việt Nam. Hành động này đã đi ngược lại những thỏa thuận giữa lãnh đạo cấp cao 2 nước, tình đoàn kết và sự hợp tác mà nhân dân và các tổ chức xã hội của 2 nước đã cùng nhau xây dựng trong nhiều năm qua, làm gia tăng phức tạp và căng thẳng, đe dọa môi trường hòa bình, ổn định và hợp tác trong khu vực. Theo cách nói của người Trung quốc thì đây chính là hành động “tiền hậu bất nhất”, còn theo cách nói của người Việt Nam: “nói lời chẳng giữ lấy lời”; “nói một đằng, làm một nẻo”; “lá mặt, lá trái”; “lươn lẹo”; “đổi trắng, thay đen”… Xét theo khía cạnh đạo lý hành động của Trung quốc càng không thể chấp nhận được.

          Trung Quốc phải rút ngay giàn khoan HD-981khỏi vùng biển của Việt Nam! Chủ quyền, lãnh thổ quốc gia là vấn đề thiêng liêng, bất khả xâm phạm, chúng ta không bao giờ chấp nhận hành động ngang ngược bất chấp pháp lý, đạo lý của Trung quốc. Trong bối cảnh quốc tế hiện nay không phải cứ nước lớn muốn làm gì thì làm. Biển Đông không phải cái “ao nhà” của Trung Quốc. Nhân dân Việt Nam đã phải trải qua nhiều cuộc chiến tranh, hơn ai hết rất hiểu giá trị của hòa bình. Tuy nhiên, chúng ta cũng kiên quyết bảo vệ bằng được chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc dù có phải đổ cả máu xương. Lịch sử hàng ngàn năm của dân tộc ta đã chứng minh Việt Nam không bao giờ khuất phục trước bạo ngược và cường quyền, không bao giờ khuất phục trước những kẻ xâm lược phương Bắc, cho dù chúng có hùng mạnh đến đâu đi chăng nữa. Có lẽ phải và tinh thần đoàn kết dân tộc chúng ta sẽ không sợ bất cứ kẻ thù nào.

Thứ Năm, 3 tháng 4, 2014

CẢNH GIÁC VỚI “DÂN CHỦ”, “NHÂN QUYỀN” THEO KIỂU MỸ
Những ngày cuối tháng 2 năm 2014 vừa qua nhân loại tiến bộ yêu chuộng hòa bình, công lý và thượng tôn pháp luật trên toàn thế giới không khỏi bàng hoàng, bất bình trước sự kiện khủng hoảng chính trị diễn ra tại U-crai-na. Một Tổng thống hợp hiến (được bầu) bỗng nhiên bị Quốc hội phế truất và thay vào đó là một Quyền Tổng thống mới với một thể chế chính trị mới thân phương Tây.  Chuyện cũng không đến nỗi “sốc” và thu hút sự quan tâm đặc biệt của dư luận quốc tế nếu đó hoàn toàn là công việc nội bộ của U-crai- na. Lâu nay trên các diễn đàn quốc tế người ta vẫn nghe thấy cụm từ: “tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của các quốc gia, dân tộc”; “tôn trọng và không can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia, dân tộc”… như là phương châm, là khuôn vàng, thước ngọc cho sự ứng xử trong quan hệ quốc tế. Mà đúng là phải như vậy. Đây còn phải được xem là những vấn đề có tính nguyên tắc cần được thực hiện trong thế giới hiện nay. Thế nhưng, không phải quốc gia nào cũng thực hiện nghiêm nguyên tắc này. Có không ít quốc gia nói không đi đôi với làm, nói và làm còn mâu thuẫn nhau, thậm chí nói một đằng, làm một nẻo. Tiêu biểu trong số các quốc gia này là Mỹ và các nước phương Tây. Đây là khẳng định hoàn toàn có cơ sở. Hãy xem cách mà Mỹ và các nước phương Tây hành xử trong sự kiện chính trị U-crai-na. Đã từ lâu Mỹ và phương Tây không che giấu ý đồ gây mất ổn định, lật đổ chính quyền của Tổng thống Y-a-nu-cô-vích; ngăn cản U-crai-na xích lại gần Nga và tham gia Liên minh Á-Âu. Với quan điểm cho rằng “vị trí của U-crai-na thuộc châu Âu”, Mỹ và EU công khai can dự vào U-crai-na; hỗ trợ người biểu tình, đe dọa áp dụng các biện pháp trừng phạt chống chính quyền của Tổng thống Y-a-nu-cô-vích, hứa hỗ trợ chính quyền lâm thời hiện nay về chính trị và tài chính; công khai và ngấm ngầm ủng hộ lực lượng đối lập về mọi mặt, kích động tình hình căng thẳng leo thang, xây dựng kịch bản lật đổ chính quyền của Tổng thống Y-a-nu-cô-vích trong khuôn khổ nghị trường. Các chuyên gia phương Tây đã tuyển chọn và huấn luyện những phần tử người U-crai-na có tư tưởng bài Nga và chống chính quyền thân Nga để chuẩn bị tiến hành các cuộc cách mạng màu…

Tất cả những” nỗ lực” nêu trên của Mỹ và phương Tây đã dẫn tới một hệ quả làm “hài lòng’ họ: chính quyền của Tổng thống Y- a-nu-cô -vích đã sụp đổ và một chính quyền mới với Tổng thống mới thân Mỹ và phương Tây được dựng lên (27/2/2014). Dù có bất cứ lời lẽ ngụy biện nào đi chăng nữa, hành động của Mỹ và phương Tây cũng chẳng thể qua mắt được nhân dân tiến bộ và các dân tộc yêu chuộng hòa bình trên toàn thế giới. Vì U-crai-na có vị trí địa chính trị quan trọng ở châu Âu và thế giới, là khu vực lợi ích sống còn của Nga và là một trong những con bài chủ chốt của Mỹ và phương Tây sử dụng nhằm bao vây, cô lập nước Nga, thực hiện ý đồ chiến lược thâu tóm toàn bộ thế giới. Chẳng phải đến bây giờ bộ mặt thật của Mỹ và phương Tây mới lộ rõ là những kẻ hiếu chiến, xâm lược và phản động. Chỉ tính riêng khoảng thời gian hơn 20 năm qua, Mỹ và phương Tây đã ngang nhiên, ngỗ ngược, bất chấp luật pháp quốc tế và dư luận tiến bộ can thiệp vào công việc nội bộ của hàng chục quốc gia trên thế giới, trong đó có không dưới 5 quốc gia bị Mỹ và phương Tây can thiệp trực tiếp bằng quân sự, cướp đi tính mạng của hàng nghìn người dân vô tội, đẩy các quốc gia, dân tộc độc lập có chủ quyền rơi vào cảnh hoang tàn, đổ nát. Nhưng, thật “nực cười” và “trớ trêu” thay lại chính Mỹ và phương Tây là những kẻ hô hào” dân chủ”, “nhân quyền”, “tự do”… nhiều nhất. Thậm chí còn trơ trẽn, hùng hổ năm nào cũng đứng lên phán xét “nhân quyền”, “dân chủ” của các quốc gia trên thế giới. Đúng là “nói mà không biết ngượng mồm”; “nói người mà chẳng nghĩ đến thân”; “nói một đằng, làm một nẻo”; “tiền hậu bất nhất; “lá mặt, lá trái”; “miệng nam mô, bụng bồ dao găm”… (như cách nói của người Việt). Đối với người Việt Nam đặc biệt là những người Việt Nam yêu nước, hơn ai hết chắc chẳng ai lạ gì bộ mặt thật của Mỹ và các nước phương Tây. Bản chất của những kẻ đã gây ra bao đau thương, tang tóc cho dân tộc mình vẫn chẳng hề thay đổi. Đặc biệt, hiện nay Mỹ và các nước phương Tây đang ráo riết tiếp tục thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình” nhằm chống phá cách mạng Việt Nam với nhiều mưu mô, xảo quyệt và vô cùng thâm độc. Thực tế này càng nhắc nhở dân tộc ta, nhân dân ta tiếp tục nêu cao cảnh giác với phương châm vừa hợp tác, vừa đấu tranh để thực hiện thắng lợi 2 nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo về Tổ quốc trong bất cứ điều kiện, hoàn cảnh nào.

Chủ Nhật, 9 tháng 3, 2014

“CỐ Ý LÀM TRÁI” CĂN BỆNH
CẦN ĐƯỢC CHỮA TRỊ

         Điểm lại những vụ việc tiêu cực mà báo chí đã nêu trong thời gian vừa qua, chúng ta thấy nổi lên hiện tượng: phần lớn nguyên nhân dẫn tới các vụ việc mà cơ quan điều tra đã kết luận, đó là “ cố ý làm trái” trong quá trình tổ chức thực hiện nghị quyết. Đây thực sự là vấn đề nhức nhối không chỉ trong nội bộ Đảng mà còn là sự nhức nhối, búc xúc của quần chúng nhân dân đối với cán bộ, đảng viên của Đảng.
         Có một sự thật mà lâu nay chúng ta vẫn thừa nhận và coi đó là một căn bệnh “Kinh niên” khó chữa đó là: ở nhiều chỗ, nhiều nơi, cán bộ nói đường lối, chủ trương của Đảng thì đúng, nhưng khi tổ chức thực hiện lại mắc sai lầm, khuyết điểm. Có hai nguyên nhân của tình trạng này, thứ nhất, quán triệt nghị quyết không kỹ lên tổ chức thực hiện sai; thứ hai, nghị quyết đúng, nhận thức đúng, nhưng cố tình thực hiện không đầy đủ, không đúng, không tích cực, không sáng tạo. Rõ ràng “ cố ý làm trái” là cố tình thực hiện không đúng Nghị quyết của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Nó khác hoàn toàn với việc thực hiện nghị quyết “không đầy đủ”, “không sáng tạo”.  Động cơ chủ yếu của hành vi “cố ý làm trái” là động cơ mang tính cá nhân,  là mưu cầu lợi ích riêng. Có thể nói, trong bất cứ điều kiện, hoàn cảnh nào, “cố ý làm trái” luôn là “người bạn đồng hành” của tham nhũng ( thực tế cho thấy, hiếm có một tổ chức, cá nhân nào cố ý làm trái Nghị quyết của Đảng lại không tham nhũng và tha hóa về đạo đức, lối sống).
         “Cố ý làm trái” là căn bệnh cực kỳ nguy hiểm. Nó thường tập chung vào những cán bộ, đảng viên có chức, có quyền. Quyền chức càng cao thì tính chất của căn bệnh càng phức tạp và nguy hiểm. Hậu quả để lại của căn bệnh này không chỉ là làm thất thoát tiền bạc của nhà nước, của nhân dân, làm giảm chất lượng của các công trình xây dựng…. mà điều quan trọng hơn cả là nó dần làm mất đi niềm tin của quần chúng nhân dân đối với cán bộ, đảng viên của Đảng, với chế độ…
          Nguyên nhân của bệnh “cố ý làm trái” trước hết phải nói tới sự tha hóa, biến chất và cơ hội của một số cán bộ, đảng viên có chức, có quyền. Sự lỏng lẻo trong cơ chế tổ chức, quản lý đã tạo kẽ hở cho những kẻ cơ hội lợi dụng và khai thác triệt để vì mục đích cá nhân. Tiếp đến là sự giảm sút sức mạnh chiến đấu ( không muốn nói là tê liệt) của một số tổ chức đặc biệt là tổ chức Đảng nơi có đảng viên vi phạm ( ở đây phê bình và tự phê bình không còn là một thứ vũ khí sắc bén để làm cho đảng viên, tổ chức đảng tiến bộ, vững mạnh)….

          Chữa trị căn bệnh “ cố ý làm trái” đòi hỏi chúng ta phải tiến hành đồng bộ nhiều giải pháp. Vấn đề không chỉ là công tác lựa chọn, xắp xếp, bố trí đội ngũ cán bộ có đủ đức, tài mà điều cốt yếu là nâng cao sức mạnh chiến đấu của các tổ chức đảng, thực hiện nghiêm túc chế độ tự phê bình, phê bình, phải làm thật kiên quyết, triệt để từ trên xuống ( thực tế cho thấy nhiều cán bộ, đảng viên khi mới được bộ nhiệm, sắp xếp đã hội tụ được đầy đủ tiêu chuẩn về đức, tài. Nhưng trong quá trình công tác thiếu sự kiểm tra, giám sát, phê bình, góp ý của các tổ chức nên đã nhanh chóng thoái hóa, biến chất dẫn tới phạm sai lầm, khuyết điểm). Cần xây dựng cơ chế giám sát, trong đó có chế độ đảng viên và nhân dân chất vấn, phê bình cấp ủy Đảng. Dân mong muốn Đảng cần phải có những biện pháp kiên quyết hơn trong cuộc chiến chống tham nhũng. Đảng cũng xác định: xây dựng Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, gắn bó mật thiết với nhân dân, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của đảng. Ý Đảng, lòng dân đã vậy, chắc chắn căn bệnh như “ cố ý làm trái”, tệ quan liêu, tham nhũng, tha hóa về đạo đức, lối sống…..sẽ bị đẩy lùi.

Chủ Nhật, 2 tháng 3, 2014

ĐẢNG VIÊN VỪA LÀ “NGƯỜI LÃNH ĐẠO”,
VỪA LÀ “NGƯỜI ĐẦY TỚ” CỦA NHÂN DÂN

          Trong sự nghiệp cách mạng của Đảng ta nói chung và trong công cuộc đổi mới đất nước nói riêng, đội ngũ cán bộ, Đảng viên có vai trò cực kỳ quan trọng, là người trực tiếp đưa đường lối, chủ trương của Đảng thấm sâu vào quần chúng nhân dân, đồng thời là người tổ chức thực hiện, nhằm hiện thực hoá đường lối chủ trương đó. Để làm tròn được sứ mệnh thiêng liêng và hết sức nặng nề ấy, một trong những yêu cầu hết sức quan trọng và có tính nguyên tắc đối với mỗi cán bộ, Đảng viên là phải giải quyết tốt mối quan hệ song trùng: mỗi cán bộ, Đảng viên phải vừa là “người lãnh đạo”, vừa là “người đầy tớ” thật trung thành của nhân dân.
          Trong Di chúc để lại cho toàn Đảng, toàn dân, trước hết Chủ tịch Hồ Chí Minh nói về Đảng: “…Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch. Phải xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ của nhân dân”[1]. Rõ ràng, vừa là “người lãnh đạo", vừa là “người đầy tớ” là hai mặt không thể tách rời trong mỗi con người đảng viên, cán bộ của Đảng. Điều đó có nghĩa là đối với quần chúng, trước hết phải là người lãnh đạo. Muốn làm tròn vai trò lãnh đạo đòi hỏi mỗi Đảng viên, cán bộ, phải thực sự có năng lực, phải đi trước quần chúng trong nhận thức các quy luật khách quan, phải có khả năng trong tổ chức, chỉ đạo các hoạt động thực tiễn. Phải dám ra quyết định và chịu trách nhiệm, Muốn vậy phải ra sức học tập, trau rồi kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ. Thường xuyên nghiên cứu, quán triệt, nắm vững mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước. Đồng thời, phải nói đi đôi với làm, cả nói và làm phải đúng đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và phải có sáng tạo. Đường lối của Đảng chỉ có ý nghĩa khi đường lối ấy thấm sâu vào quần chúng nhân dân, biến sức mạnh tinh thần thành sức mạnh vật chất để cải tạo xã hội.
Là người lãnh đạo, hơn ai hết cán bộ, Đảng viên phải là người thực sự gương mẫu,gương mẫu từ lời nói đến hành động, gương mẫu ngay cả trong gia đình và xã hội, ở mọi lúc, mọi nơi. Tính tiên phong,gương mẫu của người cán bộ, Đảng viên không phải là chung chung, trìu tượng mà nó luôn gắn liền với hiện thực cuộc sống đang từng ngày, từng giờ diễn ra một cách sôi động. Gương mẫu là luôn đi trước quần chúng trong thực hiện đường lối của Đảng, biết vận động, tập hợp quần chúng cùng thực hiện. Có lối sống trong sạch, giản dị, thói quen ứng sử có văn hoá. Thưc tế hiện nay, có một bộ phận không nhỏ cán bộ, Đảng viên ở các cấp của Đảng tha hoá về đạo đức lối sống, tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị. Một loạt những vụ việc vi phạm của cán bộ, Đảng viên và chính quyền mà báo chí đã nêu lên trong thời gian vừa qua đã gây nên sự nhức nhối và bức xúc trong nhân dân. Chính tình trạng này đã và đang cản trở không nhỏ đến việc  thưc hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, gây bất bình và làm giảm lòng tin trong nhân dân. Không có tính tiền phong, gương mẫu, Cán bộ đảng viên không thể làm tròn vai trò lãnh đạo. Dân ta vẫn nói: “Đảng viên đi trước, làng nước theo sau”, sự nêu gương của họ sẽ thuyết phục, quy tụ, tổ chức được mọi người xung quanh thực hiện tốt chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: một tấm gương sống có giá trị hơn hàng trăm bài diễn văn. Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX cũng đã xác định: “nêu cao vai trò gương mẫu của Cán bộ, Đảng viên là một trong những giải pháp nâng cao hiệu quả của công tác tư tưởng”.
          Là người đầy tớ trung thành của nhân dân, Đảng không có quyền lợi gì của riêng mình, ngoài quyền lợi của giai cấp, của dân tộc. Vì vậy Đảng phải thường xuyên chăm lo củng cố mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với dân. Để xứng đáng là người đầy tớ của nhân dân, đòi hỏi mỗi cán bộ, Đảng viên phải hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân, phải luôn đặt lợi ích của nhân dân, của tập thể, của giai cấp, lên trên lợi ích cá nhân. Đồng thời phải lấy dân làm gốc.
          Muốn làm đầy tớ tốt của dân, điều cốt yếu, quan trọng là phải biết lắng nghe ý kiến của nhân dân. Mọi chủ trương, chính sách của Đảng phải xuất pháp từ hiện thực khách quan, phải phù hợp với tâm tư, nguyện vọng của quần chúng nhân dân. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhân dân còn là người cung cấp những thông tin quan trọng để đảng biết rõ hơn phẩm chất và năng lực của đội ngũ cán bộ, Đảng viên. Không chỉ biết lắng nghe ý kiến của nhân dân, cán bộ, Đảng viên còn phải một lòng một dạ phục vụ nhân dân, lo với nỗi lo của dân, cùng đồng cam, cộng khổ với nhân dân, luôn trăn trở nghĩ suy tìm mọi cách tháo gỡ khó khăn, mang lại lợi ích cho nhân dân. Không thể là người “đầy tớ” của nhân dân theo kiểu: “Dân chạy ăn từng bữa, cán bộ Xã đi du lịch”.
          Cán bộ, Đảng viên của Đảng phải vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân. Hai mặt lãnh đạo và đầy tớ không tách rời nhau, không hề đối lập mà hòa quyện đan xen vào nhau, lãnh đạo có nghĩa là làm đầy tớ, làm đầy tớ tốt tức là thực hiện có hiệu quả một trong những tiêu chí quan trọng của người cán bộ cách mạng. Mọi biểu hiện của việc tách rời hai mặt nói trên đều dẫn tới làm suy yếu Đảng, làm mất niềm tin của quần chúng nhân dân đối với Đảng.
          Để giải quyết hài hòa mối quan hệ này, cần thực hiện tốt một số việc sau đây:
           Các tổ chức cần quy rõ trách nhiệm cá nhân, lấy tự phê bình và phê bình làm vũ khí sắc bén trong sinh hoạt tư tưởng của từng tổ chức. Phải có cơ chế để quần chúng giám sát, kiểm tra thường xuyên công việc của Cán bộ, Đảng viên một cách thiết thực, không hình thức, đồng thời phải có các điều luật bảo vệ quần chúng, khi họ phát hiện tố cáo các việc làm sai trái của Cán bộ. Người Cán bộ Đảng viên phải chân thành lắng nghe ý kiến của cấp dưới và công dân, tránh thành kiến.
          Cán bộ Đảng viên phải thực sự gương mẫu từ trong Đảng tới quần chúng và từ trên xuống dưới, nói phải đi đôi với làm. Khắc phục hiện tượng xử lý sai phạm không rõ ràng, bao che, không công minh, xử lý nội bộ để hợp thức hóa sai lầm, khuyết điểm.
           Cán bộ, Đảng viên phải thường xuyên tích cực học tập, nang cao trình độ chuyên môn, trình độ quản lý, để ngang tầm với nhiệm vụ lãnh đạo. Các tổ chức cần kiểm tra định kỳ hàng năm trình độ của đội ngũ cán bộ, theo chức trách được phân công, làm cơ sở để đánh giá và phân loại cán bộ.




[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 12, tr. 498