Tran Minh Chien
Trong
cuộc sống thường nhật chúng ta thường xuyên bắt gặp từ “phong trào” hay cụm từ
“phát động phong trào”; “cuộc vận động” trên các phương tiện truyền thông đại
chúng, trong các cuộc hội họp hoặc trong các văn bản của các cơ quan nhà nước,
các tổ chức chính trị xã hội. Rất nhiều cuộc vận động, phong trào xã hội ở Việt
Nam trong lịch sử mà tên gọi của nó mỗi khi nhắc đến không khỏi làm chúng ta
ngưỡng mộ và tự hào: “phong trào bình dân học vụ”; “trồng cây, gây rừng”; “phụ
nữ ba đảm đang”; “thanh niên ba sẵn sàng” và gần đây nhất là những phong trào
“xoá đói giảm nghèo”; “uống nước nhớ nguồn”; ‘toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hoá ở khu dân cư”; “Xây dựng và chỉnh đốn Đảng”...Có thể nói lịch sử
phát triển của xã hội Việt Nam hơn 60 năm qua là lịch sử của các “phong trào xã
hội”, các “cuộc vận động”.“Phong trào”đã thực sự trở thành một hiện tượng phổ
biến, là một phần không thể thiếu của đời sống xã hội, được chia sẻ trong cách
cảm, cách nghĩ cũng như trong giao tiếp giữa các thành viên trong xã hội. Ngay
trong những ngày tháng năm này, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đang ra sức
thi đua, tiếp tục đẩy mạnh thực hiện cuộc vận động: “Học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Việc nhận thức đúng về cuộc vận động cả về lý luận
và thực tiễn là việc làm cần thiết và quan trọng. Bài viết này là một sự tiếp
cận xã hội học về cuộc vận động “học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh”- một loại hình của phong trào xã hội.
Trong xã hội học thế giới, “hành vi tập
thể và phong trào xã hội” được xác định là một chuyên ngành của xã hội học. Khi
phân tích lý thuyết về phong trào xã hội, các nhà xã hội học trên thế giới phần
lớn thường bắt đầu từ khái niệm hành vi tập thể như là cái nền của mọi phong
trào xã hội. Những chủ đề mà họ thường đề cập là: định nghĩa, phân loại, phân
đoạn (các giai đoạn trong một phong trào), các lý thuyết giải thích, phương pháp
nghiên cứu phong trào xã hội.
Có thể
hiểu một cách khái quát nhất, phong trào xã hội là những nỗ lực tập thể có chủ
định của một hay nhiều nhóm người nhằm thực hiện các biến đổi xã hội. Phong
trào xã hội là những hoạt động tự nguyện, có tổ chức, dài hạn, có chủ trương
khuyến khích hoặc phản kháng một khía cạnh nào đó của biến đổi xã hội. Phong
trào xã hội thường có những đặc trưng sau: phải là sự nỗ lực tập thể; sự tự
nguyện của các thành viên trong xã hội; phải là hoạt động có tổ chức; được tiến
hành dài hạn; nhằm khuyến khích, thay đổi hay phản kháng cái gì đó trong biến
đổi xã hội; từ phong trào tiến tới hình thành định chế xã hội. Điều kiện để tồn
tại của phong trào là: Phong trào phải có bản sắc; phong trào phải làm rõ mình
“nhân danh ai, cái gì” và phong trào phải làm rõ “đối tượng” xã hội của mình.
Như vậy,
chúng ta cũng có thể hiểu “phong trào xã hội” chính là “những nỗ lực tập thể”
nói về những hành động chung, cùng nhau, dài hạn, có tổ chức của một nhóm, một
tập thể hoặc cả cộng đồng, nhằm một hay một vài mục tiêu mang tính xã hội. Trên
thực tế, một “phong trào xã hội”, một “ sự nỗ lực tập thể” chỉ có hiệu quả khi
nó phải luôn được một khuôn khổ chính trị, pháp lý và hành chính định hướng,
dẫn dắt, mở đường, tạo ra cơ chế để hoạt động.
Có thể
phân ra 3 loại hình của “những nỗ lực tập thể”(phong trào xã hội) như sau:
Loại hình thứ nhất, những cuộc vận động do các cơ quan nhà nước hoặc
tổ chức chính trị- xã hội khởi xướng, chủ trì và phối hợp. Nhìn từ góc độ lý
thuyết huy động nguồn lực, loại hình này thể hiện ưu thế là có nhiều nguồn tài
nguyên, như mức cam kết và ủng hộ mạnh mẽ của lãnh đạo chính trị cấp cao, có hệ
thống tổ chức, kinh phí dồi dào.
Loại hình thứ hai, là các nỗ lực hay phong trào xã hội do các tổ chức
có pháp nhân (hội, quần chúng, Viện nghiên cứu, tổ chức xã hội…) khởi xướng và
thực hiện. Loại hình này được phát triển nhanh trong những năm 90 ở Việt Nam
như phong trào khuyến học, phong trào người cao tuổi, phong trào quỹ bảo thọ ở
cơ sở…với loại hình này, Nhà nước- với tính cách là người tạo ra khuôn khổ
chính trị, pháp lý và là nhà tài trợ lớn nhất trong lĩnh vực xã hội cần phải có
sự thay đổi trong định hướng chính sách ủng hộ và tài trợ, hướng nhiều hơn vào
tiêu chuẩn hiệu quả, mở rộng cơ hội bình đẳng trong việc tiếp cận nguồn tài trợ
nhà nước, tạo nên sự bình đẳng hơn về mặt vị thế xã hội giữa các loại hình tổ
chức xã hội.
Loại hình thứ ba, bao gồm những nỗ lực tập thể của các nhóm và tập
thể, không có sự dẫn dắt của những tổ chức pháp nhân, hình thành nhằm biểu cảm
những mục tiêu, yêu cầu, nguyện vọng của các tập thể, nhóm xã hội nhất định.
Trong thời gian tới, khi quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá tăng tốc,
những kiểu nỗ lực tập thể và phong trào xã hội thuộc loại hình này sẽ có xu
hướng tăng lên và tác động ngày càng lớn đến xã hội. Cần phải được hướng dẫn về
mặt văn hoá bởi các cơ quan quản lý Nhà nước cũng như các cơ quan chuyên môn. Mặt khác, Nhà nước cũng
cần phải tạo ra những khuôn khổ chính trị và pháp lý rộng rãi hơn, rõ ràng hơn,
cần được truyền thông hướng dẫn tốt hơn và cần nhận được những phản hồi kịp
thời và đúng đắn từ phía các cơ quan nhà nước để các hành động tập thể có thể
diễn ra trong khuôn khổ luật pháp (khiếu kiện tập thể, đình công).
Từ những
quan điểm xã hội học về “phong trào xã hội” nêu trên, chúng ta thấy cuộc vận
động “học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” chính là loại hình thứ
nhất của “phong trào xã hội”. Đây là cuộc vận động do Bộ chính trị, Ban chấp
hành Trung ương đảng cộng sản Việt Nam phát động, chủ trì và tổ chức thực hiện.
Mục đích của cuộc vận động là làm cho toàn Đảng, toàn dân nhận thức sâu sắc về
những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của tư tưỏng đạo đức và tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh. Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về ý thức tu dưỡng, rèn luyện và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh sâu rộng trong toàn xã hội, đặc biệt
trong cán bộ, Đảng viên, công chức, viên chức, đoàn viên, thanh niên, học
sinh…nâng cao đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; đẩy lùi
sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống và các tệ nạn xã hội,
góp phần thực hiện thắng lợi nghị quyết Đại hội XI của Đảng. Đây là một cuộc
vận động- một phong trào xã hội rộng lớn. Sự thành công của nó đòi hỏi phải có
“những nỗ lực tập thể” cao độ. Sự nỗ lực tập thể trong cuộc vận động này hướng vào một nội dung rất rõ. Đó là, học tập
và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, tính chất và mức độ của
sự nỗ lực để thực hiện nội dung này là có sự khác nhau. Học tập để hiểu được
những tư tưởng và tấm gương đạo đức của Bác thì không khó, nhưng làm theo tư
tưởng và tấm gương đạo đức ấy thì cực kỳ khó khăn. Đây cũng chính là vấn đề mấu
chốt quyết định đến chiều sâu và sự thành công của cuộc vận động. Qua hơn 5 năm
thực hiện, Cuộc vận động đã mang lại những hiệu quả thiết thực. Trong Đảng và
trong xã hội đã xuất hiện ngày càng nhiều những cán bộ, Đảng viên, nhân dân
gương mẫu tự giác làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Kết quả triển khai
cuộc vận động đã góp phần vào việc thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị
của cơ quan, đơn vị, tác động tích cực đến việc khắc phục tình trạng suy thoái
về chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, Đảng viên. Tuy nhiên, vẫn còn tồn
tại những hạn chế, khuyết điểm trong triển khai cuộc vận động. Đó là việc triển
khai cuộc vận động trong Đảng và trong hệ thống chính trị chưa đều, hiệu quả
chưa cao. ở các địa phương việc triển khai cuộc vận động tích cực, kịp thời đồng
bộ hơn ở Trung ương; các cơ quan Đảng, đoàn thể làm tốt hơn các cơ quan quản lý
Nhà nước, doanh nhiệp Nhà nước. Chuyển biến về nhận thức trong mỗi cán bộ, Đảng
viên, công chức chưa đồng đều. Kết quả “làm theo” còn chưa thực sự rõ nét, chưa
tạo ra phong trào rộng lớn mang tính tự giác.
Đặc biệt,
bên cạnh những tấm gương của nhiều tập thể và cá nhân tự giác thực hiện có hiệu
quả cuộc vận động, thì trong nhiều lĩnh vực và ở nhiều nơi, vẫn còn tồn tại
hiện tượng thiếu vắng, thậm chí tê liệt các nỗ lực chung để giải quyết một cách
tập thể các vấn đề công cộng. Chúng ta hãy nhìn vào môi trường của các đô thị,
thật là nhức nhối. Ai ai cũng cố gắng hàng ngày lau dọn nhà mình cho thật
sạch, nhưng rồi lại đổ rác thải ra nơi công cộng một cách vô tội vạ. Công ty vệ
sinh môi trường đô thị đã nhiều lần lên tiếng, nhưng rồi sự việc chuyển biến
cũng chẳng đáng là bao. Rồi còn hàng trăm ”dự án treo” trên phạm vi toàn quốc,
toàn ”bờ xôi”; ”ruộng mật” bỏ hoang nhiều năm, trong khi đó người nông dân phải
chịu cảnh thiếu việc làm, do không có đất để canh tác; chỉ trong vòng chưa đầy
2 năm qua cả nước đã có hàng chục cơ sở sản xuất xả nước thải chưa qua xử lý ra môi trường gây
ô nhiễm nghiêm trọng và hàng chục cán bộ các cấp phải bị truy tố trước pháp
luật. Có phải các cơ quan quản lý Nhà nước, các ngành chức năng thật sự trong
nhiều năm qua không hề biết? ở đây rất
thiếu những nỗ lực tập thể nhằm xây dựng được những định chế chung khiến mọi
người tuân thủ trong đời sống công cộng. Rất cần sự thúc đẩy và hỗ trợ của
những tác nhân xã hội với những sáng kiến và tính tích cực xã hội. Không có sự
nỗ lực tập thể thì phong trào không thể thành công.
Tất cả những hiện tượng nêu trên, có thể được xem như là
những khoảng trống của những nỗ lực tập thể, là hạn chế không nhỏ cần phải được
quan tâm khắc phục.
Để tiếp tục thực hiện có hiệu quả cuộc vận động ”Học tập
và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, xin được đề xuất một số giải pháp
sau:
- Cần chú trọng hơn nữa nhiệm vụ cụ thể hoá các chuẩn mực
đạo đức trong tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh phù hợp với mỗi cơ quan,
đơn vị, địa phương để cán bộ đảng viên, công chức, viên chức và nhân dân tự
giác làm theo.(lưu ý, một trong những chuẩn mực đạo đức của Bác mà trong tình
hình hiện nay chúng ta phải thường xuyên chú ý học tập và làm theo, đó là thái
độ và hành vi ứng xử với môi trường kể cả môi trường sống và môi trường tự
nhiên).
- Tăng cường sự phối, kết hợp giữa các cấp, các ngành,
các cơ quan đơn vị trong việc giám sát và cùng nhau thực hiện nội dung cuộc vận
động. Không có sự đồng tâm, hiệp lực, sự phối hợp gắn bó giữa các cấp, các
ngành, các cơ quan đơn vị và các cá nhân trong toàn xã hội, thì khó có thể tạo
ra những nỗ lực chung để thực hiện những mục tiêu và nội dung của cuộc vận động
đã đề ra (bản chất của các cuộc vận động là huy động những nỗ lực tập thể để
thực hiện một nội dung nào đó).
- Đề cao và nhân điển hình những tập thể và cá nhân mẫu
mực (đặc biệt là cán bộ, đảng viên- những người có chức, có quyền) trong việc
học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, tuyên truyền thường xuyên
trên các phương tiện truyền thông đại chúng. Sinh thời Bác Hồ đã từng nhắc nhở:
một tấm gương sống có giá trị hơn cả trăm bài diễn văn.
- Cần phải tạo ra cơ chế và hành lang pháp lý cho cuộc
vận động. Phải gắn cuộc vận động với việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị
trọng tâm của từng cơ quan, đơn vị. Trong sinh hoạt định kỳ mỗi cán bộ đảng
viên bắt buộc phải tự giác báo cáo kết quả thực hiện trước chi bộ.
- Cần xác định một nội dung chương trình và những tiêu
chí riêng cho khối các doanh nghiệp trong việc thực hiện cuộc vận động.
Cuộc vận động ”Học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Min” đang tiếp tục đi vào chiều sâu. Tuy nhiên, mong
mỏi của mỗi người dân đất Việt là, việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức
của Bác phải đựơc diễn ra một cách thường xuyên, liên tục không chỉ dừng lại
trong phạm vi thời gian của cuộc vận động. Thiết nghĩ, mỗi người, từ người đứng
đầu Nhà nước cho đến người dân bình thường cũng đều luôn luôn phải xem việc học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cũng như ”cơm ăn”, ”nước uống”,
như” rửa mặt” hàng ngày.
02/10/2013
Tài liệu tham khảo
1.
Đặng Phong Quang, 2002, Người khởi xướng
phong trào tình nghĩa, Hà Nội mới, 15.5.2002.
2. Lê Hải Hà, 2002, Mặt trận Tổ quốc: Toàn dân xây
dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư. Trong: Bùi Thế Cường và cộng sự, 2002.
Phong trào xã hội thời kỳ Đổi mới: Một nghiên cứu bước đầu, Viện xã hội học,
Phòng phúc lợi xã hội, Báo cáo đề tài tiềm lực năm 2002.
3.Tony Bilton và các đồng sự, Nhập môn xã hội học, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1993.
4. Bộ chính trị, Chỉ thị số 06-CT/TW về tổ chức cuộc
vận động “học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét